Nan giải “bài toán” môi trường sau lũ
11/8/2025 7:16:00 PM
(Nhandan) - Nước lũ rút đi nhưng cuộc sống của người dân các tỉnh, thành phố như Đà Nẵng, Huế, Quảng Trị,... đang bị đe dọa bởi nguy cơ ô nhiễm môi trường do rác thải, bùn đất,... Công tác khắc phục đã được triển khai khẩn trương, song “bài toán” môi trường sau lũ đang đòi hỏi những giải pháp đồng bộ và bền vững hơn.
Tiềm ẩn nhiều nguy cơ say khi nước rút
Trong đợt mưa lũ lịch sử mới đây ở miền Trung, nước lũ rút dần đi đã để lại rất nhiều rác, bùn và xác động vật. Đây là vấn đề đang đặt ra trong quá trình ổn định đời sống của người dân ở khu vực ven biển Đà Nẵng, Huế hay ở các xã ven sông Hương (Huế); sông Vu Gia-Thu Bồn (Quảng Nam); sông Bến Hải và sông Kiến Giang (Quảng Trị)…
Tại thành phố Đà Nẵng, sau mưa lũ, rác thải gần như phủ kín dọc bờ biển đường Nguyễn Tất Thành. Rác chủ yếu là gỗ mục, cành cây, bao ni lông, chai lọ nhựa, xốp, xác động vật... Ban Quản lý bán đảo Sơn Trà và các bãi biển du lịch Đà Nẵng đã phối hợp với Công ty Môi trường đô thị Đà Nẵng huy động nhân lực, vật lực để thu gom, xử lý rác thải. Do lượng rác nhiều, dự kiến cơ quan chức năng phải cần nhiều ngày mới có thể thu dọn xong.
Còn tại các tỉnh, thành phố như Quảng Trị, Quảng Nam, Huế,… người dân cùng cơ quan chức năng cũng tập trung triển khai công tác dọn dẹp, khử khuẩn và khơi thông dòng chảy. Sau lũ, nguồn nước sinh hoạt của người dân nhiều nơi đứng trước nguy cơ bị nhiễm bẩn nặng. Nước ngấm phân, rác, xác gia súc, hóa chất nông nghiệp, làm tăng nguy cơ phát sinh dịch bệnh. Một số nơi, người dân dùng nước giếng chưa khử khuẩn hoặc sử dụng mặt hàng không bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm nên dễ gây ra các ổ dịch liên quan đến bệnh đường ruột và bệnh ngoài da.
|
Tại thành phố Huế, rác tập trung nhiều ở một số tuyến đường, như: Trần Quốc Toản, Bà Triệu, Phó Đức Chính, Trần Quang Khải… Thông tin từ Công ty cổ phần Môi trường và Công trình đô thị Huế cho biết, sau lũ, đơn vị đã ghi nhận lượng rác thải tăng khoảng hơn 2,5 lần so với trước. Đối với những khu vực thấp trũng, rác thải tích lại ở các cống, kênh mương, gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường và gia tăng áp lực cho công tác thu gom, xử lý.
|
Anh Nguyễn Văn Hùng ở phường Mỹ Thượng, thành phố Huế cho biết: “Lũ về cuốn theo rất nhiều loại rác thải. Nay nước lũ rút đi, các loại rác rác thải phân hủy gây mùi khó chịu, ảnh hưởng môi trường sinh hoạt… Bà con cùng với chính quyền và các lực lượng Quân đội, Công an đang cố gắng thu dọn để tránh ô nhiễm môi trường, sớm ổn định cuộc sống”.
.jpg)
Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 409 (Bộ Tham mưu Quân khu 5) tích cực giúp dân khắc phục hậu quả thiên tai, mưa lũ. (Ảnh: MINH TRANG)
Chủ động triền khai công tác vệ sinh môi trường sau lũ
Thực hiện nội dung Công điện số 206/CĐ-TTg ngày 2/11/2025 của của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính về việc tập trung khắc phục nhanh hậu quả mưa lũ tại khu vực Trung Bộ, với tinh thần “nước rút đến đâu, dọn sạch đến đó”, ngay khi nước lũ rút, chính quyền các địa phương đã cùng lực lượng Quân đội, Công an và người dân đồng loạt ra quân tổng vệ sinh, đẩy bùn non ra khỏi lòng đường, thu gom rác thải, khơi thông cống rãnh, bảo đảm vệ sinh và an toàn giao thông.
Đồng thời, cơ quan chức năng cũng tăng cường hướng dẫn người dân thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sau mưa lũ; xử lý triệt để xác động vật, vật nuôi chết nhằm phòng ngừa phát sinh dịch bệnh. Các xã, phường đẩy mạnh tuyên truyền người dân về biện pháp phòng bệnh, chống ô nhiễm nguồn nước; theo dõi, nắm tình hình sức khỏe cộng đồng; kịp thời phát hiện, báo cáo các ca bệnh bất thường để xử lý sớm, tránh lây lan thành dịch bệnh sau lũ.
Theo ông Trương Đình Hạnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Thuận Hóa, thành phố Huế, chỉ trong hơn một tuần, phường đã trải qua 3 đợt lũ liên tiếp. Hiện nay, chính quyền địa phương đang huy động toàn bộ hệ thống chính trị, tập trung khắc phục hậu quả mưa lũ. Trong đó, trọng tâm là triển khai công tác vệ sinh môi trường, khử khuẩn, không để mầm bệnh phát sinh.
Bên cạnh đó, ngành y tế các tỉnh, thành phố như Đà Nẵng, Huế, Quảng Trị,... đang khẩn trương vệ sinh môi trường, khử trùng, khử khuẩn, hạn chế bùng phát dịch bệnh. Nhiều đội chuyên môn đã xuống các xã, phường để tiến hành công tác giám sát, hướng dẫn, hỗ trợ về y tế, vệ sinh môi trường, khắc phục thiệt hại do mưa lũ gây ra.
Điển hình như tại thành phố Đà Nẵng, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật thành phố đã thành lập 5 Đội cơ động phản ứng nhanh trong phòng chống dịch bệnh truyền nhiễm và các sự kiện y tế công cộng. Sau lũ, thành viên của 5 Đội cơ động nhanh chóng đến các địa phương hỗ trợ người dân phòng bệnh dịch. Qua đó, giúp tăng năng lực giám sát, phát hiện sớm và xử lý kịp thời các ổ dịch (nếu có).
Được biết đến nay, trên cơ sở tinh thần chủ động khắc phục hậu quả mưa lũ, qua theo dõi và đánh giá bước đầu, các bệnh truyền nhiễm tại những khu vực bị ngập lụt ở miền trung chưa có dấu hiệu phát sinh bất thường.
Tuy vậy, công tác bảo đảm vệ sinh môi trường sau lũ cũng gặp một số vướng mắc như, thiếu nhân lực có chuyên môn, thiếu hóa chất và khó khăn trong vận chuyển trang thiết bị, vật tư tiêu độc, khử trùng đến vùng sâu, nơi giao thông còn chia cắt. Có nơi, người dân tự dọn giếng, lọc nước bằng cát và than hoạt tính, song không đủ bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh. Tình trạng này kéo dài không chỉ làm gia tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường mà còn làm cho công tác kiểm soát dịch bệnh gặp nhiều rủi ro; tiềm ẩn nguy cơ bùng phát ổ dịch sau lũ.
"Chỉ trong hơn một tuần, phường đã trải qua 3 đợt lũ liên tiếp. Hiện nay, chính quyền địa phương đang huy động toàn bộ hệ thống chính trị, tập trung khắc phục hậu quả mưa lũ. Trong đó, trọng tâm là triển khai công tác vệ sinh môi trường, khử khuẩn, không để mầm bệnh phát sinh" (Ông Trương Đình Hạnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Thuận Hóa, thành phố Huế).
.jpg)
.jpg)
Công tác dọn vệ sinh sau lũ tại một trường học ở thành phố Huế. (Ảnh: PHƯƠNG THẢO)
.jpg)
Cán bộ, chiến sĩ Quân khu 5 và Binh chủng Hóa học khẩn trương làm sạch môi trường sau lũ tại thành phố Đà Nẵng. (Ảnh: HUY ĐẠT)
Cần có cơ chế hỗ trợ ứng phố sự cố môi trường sau thiên tai
Sau mỗi đợt lũ, môi trường ở nhiều nơi lại trở thành nỗi lo thường trực. Thực tế cho thấy, nhiều địa phương vẫn thiếu lực lượng ứng phó chuyên trách, quy hoạch xử lý rác thải chưa đồng bộ, hạ tầng môi trường còn yếu, đặc biệt tại vùng nông thôn. Nguồn kinh phí hỗ trợ xử lý môi trường sau thiên tai cũng còn chậm, chủ yếu lồng ghép trong ngân sách khắc phục hậu quả lũ lụt, khiến việc làm sạch môi trường chưa triệt để.
Điều đó cho thấy, xử lý môi trường sau lũ không chỉ là chuyện thu gom rác hay khử khuẩn nước, mà là bài toán về cơ chế, tài chính và năng lực quản lý. Khi các “nút thắt” này được tháo gỡ, người dân mới có thể an tâm ổn định cuộc sống lâu dài.
|
Nhìn từ góc độ chuyên môn, nhiều hướng dẫn của ngành y tế cho thấy tuần đầu sau khi nước rút là giai đoạn đặc biệt quan trọng để kiểm soát ô nhiễm và nguy cơ dịch bệnh. Do đó, vấn đề quan trọng đầu tiên là các địa phương bị ảnh hưởng bởi mưa lũ cần tập trung khử khuẩn nguồn nước sinh hoạt và thu gom, xử lý rác thải các loại. Chủ động tiến hành phân loại rác tại chỗ (rác hữu cơ, phế liệu, rác nguy hại); dùng phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh, rắc vôi bột khử khuẩn; xử lý xác động vật đúng theo quy trình an toàn sinh học.
|
Đồng thời, các địa phương tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến hướng dẫn người dân cách thức khử khuẩn, vệ sinh, xử lý rác; tránh tình trạng “tự phát” đổ rác xuống sông hoặc tự xử lý không đúng cách. Thực hiện đầy đủ việc bảo đảm kinh phí, hỗ trợ phương tiện và trang bị bảo hộ để xử lý các vấn đề về nguồn nước, rác thải sau lũ theo đúng quy định.
.jpg)
Nước lũ qua đi để lại rất nhiều rác các loại. (Ảnh: VŨ LINH)
Về lâu dài, theo ông Đinh Văn Hùng, Giám đốc Trung tâm Địa môi trường và Tổ chức lãnh thổ (Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam), cần đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ và dữ liệu số vào công tác phòng chống thiên tai nói chung và bảo vệ môi trường sau mưa lũ, phù hợp với định hướng của Chiến lược quốc gia về phòng, chống thiên tai và Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2050. Nghiên cứu xây dựng hệ thống bản đồ ngập lụt theo từng cấp độ dự báo, tích hợp các dữ liệu nguồn lực ứng phó, dữ liệu khu dân cư, khu vực chăn nuôi, cơ sở y tế, các khu vực phát triển kinh tế. Đây sẽ là cơ sở vững chắc cho chỉ huy, chỉ đạo, ứng phó sự cố thiên tai trong đó quan trọng nhất là ứng phó với ngập lụt.
Tăng cường ứng dụng AI, viễn thám, ảnh vệ tinh, UAV (flycam) để nhanh chóng đánh giá vùng ngập, dòng trôi rác thải, mức độ bồi lấp bùn đất; từ đó lập kế hoạch dọn dẹp và phục hồi. Phát triển các ứng dụng di động (app) báo cáo điểm ô nhiễm để người dân gửi hình ảnh, tọa độ các điểm tồn lưu rác, bùn, xác gia súc sau lũ; chính quyền và lực lượng chức năng có thể tiếp nhận, phân loại và điều lực lượng xử lý. Vận dụng kinh nghiệm của một số nước trong việc triển khai trạm lọc nước di động sử dụng năng lượng tái tạo (năng lượng mặt trời, pin lưu trữ), phù hợp với vùng sâu, vùng xa, vùng thường xuyên bị cô lập do mưa lũ.
Để “bài toán” môi trường sau lũ được giải quyết một cách đồng bộ, cần xem xét vấn đề này ngay trong quá trình quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, quy hoạch đô thị, nông thôn và hạ tầng môi trường. Cụ thể, cần chú ý quy hoạch khu xử lý rác, bãi chôn lấp, khu lưu giữ tạm rác sau thiên tai ở vị trí an toàn, không bị ngập sâu; thiết kế hệ thống thoát nước đô thị, nông thôn, khu công nghiệp thích ứng với mưa lũ cực đoan; hạn chế nước rút chậm gây ô nhiễm kéo dài; kiểm soát chặt chẽ khu chăn nuôi tập trung, kho hóa chất, kho xăng dầu, nghĩa trang tại vùng thường xuyên ngập lụt, bảo đảm có phương án an toàn khi xảy ra lũ lớn (Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Mạnh Tiến, Ủy viên đoàn Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Tổng Thư ký Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam).
Một vấn đề quan trọng khác đó là cần có cơ chế tài chính linh hoạt và huy động nguồn lực xã hội. Hiện nay, “nút thắt” lớn hiện nay là kinh phí xử lý môi trường sau lũ chủ yếu lồng ghép trong nguồn khắc phục hậu quả thiên tai, giải ngân chậm, khó đáp ứng yêu cầu mang tính cấp bách của công tác đặc biệt này.
Nhiều chuyên gia cho rằng, nên ưu tiên bố trí vốn cho các dự án phòng, chống thiên tai, sạt lở, thích ứng biến đổi khí hậu trong giai đoạn 2026-2030, đặt ngang tầm với các chương trình quốc phòng, an ninh và y tế. Cùng với đó, cải cách cơ cấu chi ngân sách, chuyển hướng sang đầu tư phòng ngừa, giảm nhẹ rủi ro, nâng cao tính kịp thời trong sử dụng ngân sách phục vụ công tác bảo vệ môi trường sau lũ trên cơ sở bảo đảm công khai, minh bạch.
Trước những diễn biến ngày càng phức tạp của tình hình mưa lũ, cần khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức xã hội, các dự án quốc tế tham gia tài trợ thiết bị, hóa chất khử khuẩn, trạm xử lý nước nước di động, phương tiện thu gom, vận chuyển rác.
Song song với đó, cần đẩy mạnh hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cộng đồng đối với công tác bảo vệ môi trường sau mưa lũ. Từng có nhiều năm gắn bó với công tác khắc phục hậu quả mưa lũ, Đại tá Vũ Văn Hưng, Phó Chính uỷ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Chính uỷ Ban Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh nhìn nhận, cần đẩy mạnh truyền thông tại chỗ (loa phường, nhà văn hóa, mạng xã hội của địa phương, nhóm Zalo tổ dân phố) với thông điệp ngắn gọn, dễ nhớ về: cách xử lý nước uống, xử lý giếng, thu gom rác, chôn lấp xác gia súc, vệ sinh nhà cửa, nhà vệ sinh sau lũ… Ứng dụng khoa học công nghệ và phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội tại địa phương trong tuyên truyền, nhất là trên các nền tảng mạng xã hội.
.jpg)
Các cán bộ, chiến sĩ Trường Quân sự Quân khu 5 thu dọn và vận chuyển rác tích tụ tại khu vực chùa Cầu Hội An sau lũ. (Ảnh: ANH ĐÀO)
Từ góc nhìn vĩ mô, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trương Mạnh Tiến, Ủy viên đoàn Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Tổng Thư ký Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam cho rằng, để “bài toán” môi trường sau lũ được giải quyết một cách đồng bộ, cần xem xét vấn đề này ngay trong quá trình quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, quy hoạch đô thị, nông thôn và hạ tầng môi trường. Cụ thể, cần chú ý quy hoạch khu xử lý rác, bãi chôn lấp, khu lưu giữ tạm rác sau thiên tai ở vị trí an toàn, không bị ngập sâu; thiết kế hệ thống thoát nước đô thị, nông thôn, khu công nghiệp thích ứng với mưa lũ cực đoan; hạn chế nước rút chậm gây ô nhiễm kéo dài; kiểm soát chặt chẽ khu chăn nuôi tập trung, kho hóa chất, kho xăng dầu, nghĩa trang tại vùng thường xuyên ngập lụt, bảo đảm có phương án an toàn khi xảy ra lũ lớn.
Thực tiễn chỉ ra, phòng chống nguy cơ ô nhiễm môi trường sau lũ không phải là “bài toán” của riêng ngành tài nguyên môi trường mà là trách nhiệm chung, cần sự chung tay của toàn xã hội. Tự nhiên có khả năng thích ứng, song nguy cơ ô nhiễm môi trường sau lũ sẽ không thể bị đẩy lùi nếu không có những hành động cụ thể của con người. Những giải pháp đồng bộ, trọng tâm là sự vào cuộc của các cấp, các ngành, các lực lượng cùng ý thức trách nhiệm của người dân sẽ là cơ sở quan trọng để xóa bỏ nỗi lo ô nhiễm môi trường sau lũ, tạo điều kiện xây dựng cộng đồng dân cư thực sự bền vững, an toàn trước thiên tai.
Tổ chức sản xuất: Hồng Vân, Nội dung và Trình bày: Thùy Linh
Lượt xem : 32