Vietnamese English
Việt Nam tăng tốc giảm phát thải carbon hướng tới tăng trưởng xanh

8/23/2025 7:57:00 AM

Việt Nam đẩy nhanh các dự án giảm phát thải, mở rộng năng lượng sạch và tài chính xanh để thúc đẩy tăng trưởng xanh, nâng sức cạnh tranh dài hạn.

 
Việt Nam tăng tốc giảm phát thải carbon hướng tới tăng trưởng xanh - Ảnh 1




Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu chuyển sang mô hình carbon thấp, Việt Nam không chỉ đứng trước áp lực tuân thủ tiêu chuẩn môi trường mới mà còn trước cơ hội tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng hiệu quả, bền vững và cạnh tranh hơn. “Tăng tốc” ở đây không đơn thuần là khởi động thêm dự án, mà là chuyển sang cách tiếp cận có hệ thống: ưu tiên danh mục dự án có chi phí giảm phát thải thấp, thời gian hoàn vốn hợp lý, khả năng nhân rộng cao và tác động lan tỏa mạnh tới năng suất nền kinh tế.

Trước hết, giảm phát thải carbon phải đi cùng tăng trưởng. Các dự án cần chứng minh đồng thời ba giá trị: (i) cắt giảm khí nhà kính đo đếm được; (ii) cải thiện năng suất năng lượng hoặc tài nguyên; (iii) tạo năng lực mới cho nền sản xuất – từ chuỗi cung ứng, công nghệ đến kỹ năng lao động. Khi ba yếu tố này hội tụ, tăng trưởng xanh không còn là “chi phí tuân thủ” mà trở thành lợi thế cạnh tranh.

Việt Nam tăng tốc giảm phát thải carbon hướng tới tăng trưởng xanh - Ảnh 2

Động lực tăng tốc: đồng bộ chính sách – công nghệ – tài chính

Động lực thứ nhất là khung chính sách nhất quán. Các mục tiêu giảm phát thải cần được “dịch” thành chỉ tiêu cụ thể cho từng ngành, từng địa phương và gắn kèm cơ chế đo lường, báo cáo, thẩm định (MRV) rõ ràng. Một quy trình MRV minh bạch giúp doanh nghiệp biết chính xác mình phải làm gì, được hưởng gì và chịu trách nhiệm thế nào, qua đó giảm rủi ro thực thi, nâng mức sẵn sàng đầu tư. Cùng với đó, cơ chế định giá carbon hoặc trao đổi tín chỉ đóng vai trò tạo tín hiệu thị trường, khuyến khích công nghệ sạch và triệt tiêu động lực kéo dài mô hình phát thải cao. Ví dụ, chương trình thí điểm trao đổi tín chỉ carbon trong ngành điện gió và điện mặt trời ở Bình Thuận và Ninh Thuận cũ đã giúp các dự án như Trung Nam – Thuận Nam bán được tín chỉ ra thị trường quốc tế.

Động lực thứ hai là công nghệ và dữ liệu. Những dự án “ăn điểm” nhanh thường nằm ở các giải pháp tiết kiệm năng lượng trong công nghiệp, nâng cấp lưới điện để hấp thụ năng lượng tái tạo, điện khí linh hoạt hỗ trợ cân bằng phụ tải, điện hóa giao thông đô thị, thu hồi và tận dụng nhiệt thải, cũng như các công cụ số hóa theo dõi phát thải ở cấp dây chuyền, nhà máy và khu công nghiệp. Khi dữ liệu hoạt động – tiêu thụ – phát thải được số hóa, nhà quản lý có thể thiết kế chính sách dựa trên bằng chứng, ngân hàng định giá rủi ro chuẩn xác, còn doanh nghiệp tối ưu quy trình theo thời gian thực. Tại TP. Hồ Chí Minh, hệ thống VinBus với xe buýt điện đã bắt đầu thu thập và phân tích dữ liệu vận hành để tối ưu hóa lộ trình và tiêu hao điện năng.

Động lực thứ ba là tài chính xanh. Dự án carbon thấp thường cần vốn đầu tư ban đầu lớn nhưng có dòng tiền ổn định, nên phù hợp với mô hình tín dụng dài hạn, trái phiếu xanh và cấu trúc tài chính pha trộn (blended finance). Điểm mấu chốt là tiêu chí phân loại “xanh” rõ ràng, hồ sơ dự án theo chuẩn quốc tế, và bộ chỉ số đánh giá rủi ro – lợi ích mà cả cơ quan quản lý lẫn nhà đầu tư đều hiểu giống nhau. Khi đó, chi phí vốn giảm xuống, quy mô dự án mới bật lên đáng kể. Chẳng hạn, dự án điện gió ngoài khơi La Gàn (Bình Thuận cũ) đã huy động được nguồn vốn quốc tế lớn nhờ đáp ứng tiêu chuẩn ESG khắt khe.

Từ góc độ triển khai, “tăng tốc” cũng đòi hỏi nâng cấp năng lực quản trị dự án. Cần có một đầu mối điều phối danh mục liên ngành theo kiểu văn phòng quản lý danh mục (PMO) để làm bốn việc: chuẩn hóa tài liệu dự án; tháo gỡ pháp lý theo cơ chế “một cửa – thời hạn xác định”; kết nối nhà phát triển với ngân hàng và quỹ; và theo dõi tiến độ theo các cột mốc kỹ thuật. Khi nút thắt thủ tục được gỡ, chi phí giao dịch giảm mạnh, tốc độ giải ngân sẽ là thước đo thực chất của “tăng tốc”.

Việt Nam tăng tốc giảm phát thải carbon hướng tới tăng trưởng xanh - Ảnh 3

Lộ trình hành động đến 2030: tám nhóm dự án ưu tiên

1. Nâng cấp lưới điện, tích trữ và điều độ thông minh. Lưới truyền tải – phân phối được tăng cường sẽ giải tỏa công suất năng lượng tái tạo, giảm tổn thất điện năng và nâng độ tin cậy. Hệ thống tích trữ năng lượng (pin, thủy điện tích năng) và phần mềm điều độ thông minh giúp cân bằng phụ tải giờ cao điểm – thấp điểm, từ đó giảm nhu cầu đầu tư công suất đỉnh đắt đỏ. Hiện, dự án thủy điện tích năng Bắc Ái đang trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, dự kiến trở thành công trình tích trữ lớn nhất cả nước.

2. Hiệu suất năng lượng trong công nghiệp. Các dự án cải tiến động cơ, hơi – nhiệt, hệ thống lạnh, chiếu sáng, quản trị năng lượng theo chuẩn quốc tế thường có suất đầu tư thấp nhưng tiết kiệm lớn và hoàn vốn nhanh. Khi được triển khai theo mô hình “ESCO” (doanh nghiệp dịch vụ năng lượng), rào cản vốn ban đầu của nhà máy được hạ xuống, tốc độ nhân rộng tăng đáng kể. Một ví dụ là dự án cải tạo lò nung tại Nhà máy xi măng Bỉm Sơn giúp giảm hơn 10% tiêu thụ điện.

3. Điện hóa giao thông đô thị và logistics. Xe buýt, taxi, xe giao hàng – vận tải ngắn có lộ trình cố định, quãng đường ngày ổn định và điểm đỗ tập trung, nên phù hợp với điện hóa sớm. Hạ tầng sạc cùng hệ sinh thái vận hành – bảo dưỡng – tái chế pin có thể phát triển theo cụm đô thị – khu công nghiệp, tạo lợi ích quy mô và dữ liệu hoạt động nhất quán để tối ưu khai thác. VinFast đã triển khai hàng nghìn trạm sạc tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, phục vụ cả taxi điện Green SM.

4. Xây dựng xanh và quản trị năng lượng tòa nhà. Thiết kế công trình theo chuẩn hiệu suất, vật liệu ít phát thải, hệ thống quản lý tòa nhà (BMS) và giải pháp mái – mặt đứng năng lượng mặt trời giúp giảm tiêu thụ điện đáng kể. Với tòa nhà thương mại, việc minh bạch chỉ số tiêu thụ theo diện tích sàn khiến tiết kiệm năng lượng trở thành lợi thế cho thuê và bán lẻ. Tòa nhà Deutsches Haus tại TP. Hồ Chí Minh đã đạt chứng nhận LEED Platinum với mức tiết kiệm năng lượng 45% so với tiêu chuẩn.

5. Kinh tế tuần hoàn và quản lý chất thải. Chất thải rắn đô thị, bùn thải và phụ phẩm nông nghiệp nếu được phân loại – thu gom – xử lý đúng quy trình có thể chuyển thành khí sinh học, vật liệu tái chế hoặc nhiên liệu thay thế cho công nghiệp. Mỗi tấn chất thải xử lý đúng chuẩn không chỉ giảm phát thải mà còn tránh được chi phí chôn lấp và rò rỉ khí methane. Nhà máy điện rác Sóc Sơn (Hà Nội) hiện xử lý khoảng 5.000 tấn rác mỗi ngày, phát điện từ khí sinh học thu được.

6. Nông nghiệp – lâm nghiệp – sử dụng đất. Các mô hình canh tác ít phát thải, giảm phát thải methane trong trồng lúa, chăn nuôi, cùng với trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh, quản lý rừng bền vững có thể tạo ra tín chỉ carbon chất lượng khi hệ thống đo đạc và giám sát được chuẩn hóa. Đây cũng là nhóm dự án có đồng lợi ích xã hội lớn ở nông thôn. Dự án trồng rừng gỗ lớn ở Quảng Trị đã được chứng nhận FSC và bắt đầu giao dịch tín chỉ carbon.

7. Công nghiệp nền tảng carbon thấp. Xi măng, thép, vật liệu xây dựng có thể giảm phát thải thông qua thay thế một phần nguyên liệu, tối ưu quy trình, thu hồi nhiệt thải; về dài hạn, chuẩn bị nền tảng cho các công nghệ sâu như thu giữ – lưu trữ – sử dụng carbon (CCUS) ở những điểm nguồn lớn nơi khả thi về địa chất và kinh tế. Nhà máy xi măng Công Thanh đã thử nghiệm thu hồi CO₂ từ khí thải để sử dụng trong sản xuất.

8. Hạ tầng dữ liệu phát thải và thị trường tín chỉ. Một “sổ cái” phát thải – hấp thụ quốc gia, kết nối dữ liệu của doanh nghiệp, địa phương và cơ quan quản lý, cùng nền tảng đăng ký – giao dịch tín chỉ theo chuẩn, là điều kiện để dòng vốn xanh lưu thông. Khi dữ liệu tin cậy, tín dụng xanh và trái phiếu xanh sẽ có cơ sở thẩm định minh bạch hơn. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã bắt đầu xây dựng Cổng thông tin thị trường carbon quốc gia để vận hành từ 2028.

Đi cùng tám nhóm ưu tiên là cơ chế huy động vốn phù hợp. Dự án hạ tầng lưới, cấp thoát nước, xử lý rác… phù hợp với đối tác công – tư (PPP) kết hợp vốn vay dài hạn. Dự án hiệu suất năng lượng, tòa nhà, điện mặt trời mái nhà phù hợp với các gói tín dụng xanh chuẩn hóa hồ sơ. Dự án nông nghiệp – lâm nghiệp có thể gắn với mô hình hợp tác công – tư với cộng đồng địa phương, đảm bảo chia sẻ lợi ích công bằng.

Một điểm then chốt khác là phát triển năng lực con người. Từ kỹ sư hệ thống điện đến chuyên gia dữ liệu, từ cán bộ thẩm định dự án đến nhà quản trị rủi ro tín dụng xanh, nhu cầu kỹ năng mới là rất lớn. Các chương trình đào tạo ngắn hạn, chứng chỉ nghề xanh, và hợp tác giữa trường – viện – doanh nghiệp sẽ rút ngắn khoảng cách kỹ năng, giúp dự án đi nhanh nhưng vẫn bảo đảm chất lượng.

Tăng tốc cũng cần cách tiếp cận “chính đáng” (just transition). Ở những ngành, khu vực chịu tác động chuyển đổi, việc hỗ trợ đào tạo lại, tạo cơ hội việc làm mới, và cung cấp dịch vụ công cơ bản là nền tảng duy trì đồng thuận xã hội. Khi người lao động nhìn thấy lộ trình sinh kế rõ ràng, chuyển đổi xanh sẽ bền vững hơn và giảm thiểu rủi ro đứt gãy.

Một khó khăn thường gặp là “bẫy thí điểm”: làm được dự án mẫu nhưng khó nhân rộng. Cách thoát bẫy là tiêu chuẩn hóa quy trình từ đầu, xây dựng bộ tài liệu mẫu (hợp đồng mua bán điện, hợp đồng ESCO, hợp đồng PPP…) và hệ thống đánh giá độc lập để mọi bên cùng tin tưởng. Khi một mẫu được chứng minh ở quy mô nhỏ, việc mở rộng sang nhiều địa phương – nhiều ngành sẽ nhẹ nhàng hơn rất nhiều.

Từ góc độ doanh nghiệp, chiến lược giảm phát thải hiệu quả bắt đầu từ kiểm kê phát thải cấp chuỗi giá trị, xác định các “điểm nóng” tiêu thụ năng lượng, rồi thiết kế danh mục dự án theo ba lớp thời gian: biện pháp không – ít chi phí (housekeeping, tối ưu vận hành), biện pháp đầu tư trung bình (thay thế thiết bị, số hóa), và biện pháp dài hạn (đổi mới công nghệ, chuyển đổi nhiên liệu). Cùng lúc, doanh nghiệp chuẩn hóa công bố thông tin bền vững để tiếp cận vốn rẻ hơn và mở cửa vào các thị trường đòi hỏi tiêu chuẩn môi trường cao.

Ở cấp địa phương, cụm dự án liên kết sẽ gia tăng hiệu quả: khu công nghiệp – cảng – đô thị triển khai đồng bộ điện sạch, hạ tầng sạc, xử lý chất thải và tái chế, giao thông công cộng sạch. Cách làm theo “cụm” cho phép san sẻ chi phí hạ tầng, đồng thời tạo đủ quy mô để thu hút nhà cung cấp công nghệ và vốn dài hạn.

Về truyền thông – nhận thức, điều quan trọng là làm rõ lợi ích thiết thực: hóa đơn năng lượng giảm, chất lượng không khí cải thiện, năng suất tăng nhờ quy trình tối ưu, cơ hội việc làm mới trong các ngành dịch vụ – công nghệ xanh. Khi người dân và doanh nghiệp cảm nhận được lợi ích cụ thể, họ sẽ chủ động tham gia thay vì chỉ “tuân thủ”.

Cuối cùng, tiêu chí thành công của “tăng tốc” không nằm ở số lượng khẩu hiệu, mà ở những chỉ số có thể đo được: mức giảm cường độ phát thải trong từng ngành; tỷ lệ năng lượng sạch hòa lưới đi kèm độ tin cậy cung cấp điện; suất tiêu hao năng lượng giảm ở nhóm doanh nghiệp thâm dụng năng lượng; tỷ lệ chất thải được tái chế – thu hồi năng lượng; diện tích rừng được quản lý bền vững; và, quan trọng hơn cả, chi phí vốn cho dự án xanh được hạ xuống nhờ niềm tin của nhà đầu tư vào dữ liệu và thể chế.

Tăng trưởng xanh vì thế là chiến lược phát triển, không phải phong trào. Khi các dự án giảm phát thải được thiết kế bài bản, tài trợ đúng cách và vận hành dựa trên dữ liệu, Việt Nam không chỉ tiến gần hơn tới mục tiêu khí hậu, mà còn nâng cấp năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong thập kỷ quyết định phía trước.

Minh Thành


 

(Kinhtemoitruong.vn)

Lượt xem : 36