(VACNE) - Từ quan sát thực tế các nhà khoa học nhận định: Biến đổi khí hậu (BĐKH) diễn biến nhanh hơn dự báo. Điều đó được minh chứng bằng những con số phát thải khí nhà kính và tình hình thiên tai trong những năm gần đây.
TS. Nguyễn Ngọc Sinh và TS. Phạm Đức Thi
Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam
I. Đặt vấn đề
Từ quan sát thực tế các nhà khoa học nhận định: Biến đổi khí hậu (BĐKH) diễn biến nhanh hơn dự báo. Điều đó được minh chứng bằng những con số phát thải khí nhà kính và tình hình thiên tai trong những năm gần đây.
Ngày 6/11/2013 Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO) cho biết, lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính trong không khí đạt mức kỉ lục mới trong năm 2012. Theo báo cáo hàng năm của tổ chức này, khối lượng khí thải carbonic (CO2) trong không khí tăng nhanh hơn trong năm 2012, cao hơn 41% so với mức thời kì tiền công nghiệp. Lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính năm 2020 dự kiến cao hơn từ 8 - 12 tỉ tấn so với mức cần thiết để duy trì mức tăng nhiệt độ toàn cầu dưới 2oC vào năm 2020.
Người đứng đầu WMO Michel Jarraud cảnh báo: “Thông tin này hoàn toàn không tốt lành. Năm 2012 tồi tệ hơn năm 2011. Năm 2011 tồi tệ hơn 2010. Mỗi năm chúng ta lại đạt một mức kỉ lục mới. Thời gian đang trôi qua mà không có bất cứ hành động nào được đưa ra. Điều này đang tác động tiêu cực tới sự BĐKH toàn cầu”.
Theo thống kê của các nhà nghiên cứu thuộc Dự án Carbon Toàn cầu GCP, mức khí thải CO2 đã đạt con số 391ppm vào năm 2012 và 400ppm (2013), vượt xa con số 365ppm cần giữ để nhiệt độ toàn cầu không tăng cao hơn 2oC.
Hậu quả là, theo một nghiên cứu của các nhà khoa học Thụy Sĩ, Australia và Canada được đăng tải trên tạp chí "Biến đổi Khí hậu Tự nhiên" (Nature Climate Change) ngày 26/2/2014, hiện tượng thời tiết nóng bức có xu hướng gia tăng trên toàn thế giới trong 15 năm qua. Thời tiết nóng bức là một trong số những hệ quả của tình trạng BĐKH, gây ảnh hưởng xấu tới xã hội và đời sống của người dân. Theo số liệu của Cơ quan Khí quyển & Đại dương Quốc gia Mỹ (NOAA) công bố ngày 21/1/2014, nhiệt độ trung bình trên toàn cầu trong năm 2013 đạt 14,52oC, cao hơn 0,62oC so với mức trung bình trong thế kỷ 20 và là năm nóng thứ 4 trong 134 năm qua. Năm 2013 đã đi vào lịch sử khí tượng thế giới khi trở thành một trong những năm nóng nhất kể từ khi các chuyên gia bắt đầu thu thập và ghi chép dữ liệu về nhiệt độ trung bình của Trái Đất vào năm 1880.
Cũng theo NOAA, nhiệt độ trung bình toàn cầu trong tháng 4.2014 đã đạt mức kỷ lục so với nhiệt độ trung bình kể từ năm 1880, bằng với mức kỷ lục ghi nhận được của năm 2010, đạt mức nóng kỷ lục. Theo đó, hành tinh xanh của chúng ta trong tháng 4 có nhiệt độ cao hơn nhiệt độ trung bình của thế kỷ 20 là 0,77 oC.
Báo cáo thứ 5 của IPCC khẳng định: Con người chịu trách nhiệm tới 95% gây ra BĐKH. So với 6 năm trước, độ chắc chắn đã tăng lên 5%, khi IPCC khẳng định 90% do con người đang gây ra sự nóng lên của toàn cầu.
Thiên tai xảy ra ngày càng khốc liệt. AFP dẫn thống kê của hãng bảo hiểm Swiss Re (Thụy Sĩ) công bố ngày 18/12/2013 cho biết, thảm họa thiên nhiên trong năm 2013 ước tính gây tổng thiệt hại khoảng 130 tỉ USD. Trong đó, siêu bão Hải Yến quét qua Philippines hồi đầu tháng 11/2013 là thảm họa gây tang thương và mất mát nhiều nhất, với khoảng 7.000 người thiệt mạng, khiến số lượng người chết do thảm họa trong năm 2013 trên thế giới lên đến 25.000 người, tăng đáng kể so với năm 2012 (14.000 người).
Ở Việt Nam, trung bình mỗi năm thiên tai cướp đi mạng sống của hơn 450 người, thiệt hại vất chất ước tính khoảng 1,5% GDP.
Riêng năm 2013, Việt Nam chịu ảnh hưởng của 15 cơn bão với cường độ mạnh và diễn biến phức tạp, đặc biệt tình trạng mưa, lũ sau bão đã gây thiệt hại nặng về người và tài sản cho nhiều tỉnh và thành phố. Thiên tai năm 2013 đã làm 313 người chết và mất tích, 1.150 người bị thương. Các địa phương có số người bị chết và mất tích nhiều do thiên tai là Quảng Bình với 46 người, Nghệ An (29 người), Lào Cai (23 người), Quảng Ngãi (22 người), Bình Định (22 người). Thiệt hại về vật chất ước tính gần 30.000 tỷ đồng, gấp trên 2 lần năm 2012, trong đó Quảng Bình thiệt hại lớn nhất, khoảng 12.400 tỷ đồng, chiếm 41,6% tổng giá trị thiệt hại của cả nước.
II. Biểu hiện của biến đổi khí hậu và kịch bản BĐKH cho khu vực Trường Sơn
2.1 Những biểu hiện của biến đổi khí hậu ở các tỉnh thuộc dãy Trường Sơn:
Trên cơ sở phân tích số liệu nhiệt độ quan trắc từ 30 - 33 năm (1979 - 2008), tại Hội thảo khoa học “Bảo tồn đa dạng sinh học dãy Trường Sơn” lần thứ 2 (18-19/3/2010), các tác giả đã trình bày báo cáo Biến đổi khí hậu đã hiện hữu ở dãy Trường Sơn với các nhận định:
- Tại các tỉnh bắc dãy Trường Sơn, nhiệt độ trung bình năm phổ biến cao hơn từ 0.3 - 0.6oC, thấp hơn so với mức tăng ở khu vực Nam Trung Bộ - Tây Nguyên (phổ biến cao hơn từ 0.5 - 0.8oC, riêng Kon Tum, cao hơn 1oC), phù hợp với số liệu công bố của Bộ Tài nguyên và Môi trường: trong khoảng 50 năm qua (1958 -2007), nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam tăng khoảng 0.5 - 0.7 oC.
- Nhìn chung, nhiệt độ trung bình các tháng mùa đông cao hơn so với mùa hè. Trong 3 tháng chính đông (tháng 12 - 2), tại các tỉnh thuộc bắc dãy Trường Sơn nhiệt độ trung bình phổ biến cao hơn từ 0.4 - 0.7 oC, trong khi các tháng chính hè (tháng 6 - 8), nhiệt độ trung bình phổ biến cao hơn từ 0.2 - 0.3 oC, một số trạm mang trị số âm. Ở Nam Trung Bộ - Tây Nguyên, nhiệt độ trung bình các tháng mùa đông cao hơn hẳn so với các thời kỳ khác, tiêu biểu là tháng 1, phổ biến cao hơn từ 0.8 - 1.5 oC, cá biệt có trạm cao hơn 1.7 oC (Kon Tum). Trong 3 tháng chính đông, nhiệt độ trung bình phổ biến cao hơn từ 0.8 - 1.4 oC, riêng Plei Ku (Gia Lai), cao hơn 1.8oC; Trong các tháng mùa hè, nhiệt độ trung bình phổ biến cao hơn 0.4 - 0.7oC. Trong các tháng chuyển tiếp (tháng 4 và tháng 10), mức tăng của nhiệt độ thấp hơn và không đều giữa các trạm.
Như vậy, so với thập niên 1979 -1988, nhiệt độ không khí trung bình thập niên 1999 - 2008 cao hơn rõ rệt, nhất là vào các tháng mùa đông và trên độ cao từ 100 mét đến 800 mét đối với khu vực Nam Trung bộ - Tây Nguyên. Mức độ phân hóa nhiệt độ theo chiều cao ở bắc Trường Sơn không được thể hiện rõ như ở Nam Trung bộ - Tây Nguyên, song ở mức độ tương đối, có thể thấy ở độ cao trên 40m, nhiệt độ tăng rõ hơn và ổn định hơn so với các trạm ở độ cao thấp hơn.
Những năm gần đây nhiệt độ cao càng thể hiện rõ rệt hơn. Theo công bố của các nhà khoa học về khí tượng thì mùa hè năm 2010 là năm có nhiệt độ cao nhất trên trái đất từ khi loài người có phương tiện quan trắc đến nay.
Ở Việt Nam, trên phạm vi cả nước trong năm 2010 đã xảy ra 18 đợt nắng nóng trên diện rộng, riêng khu vực Bắc Trung Bộ xảy ra tới 11 đợt nắng nóng, nhiều nhất trong các khu vực trên địa bàn cả nước, là năm được coi là nắng nóng nhất trong hàng chục năm qua. Nhiệt độ cao nhất trong ngày phổ biến 35-38oC, nhiều nơi vượt 40oC. Đã quan trắc được nhiệt độ cao nhất lịch sử ở một số nơi vào ngày 19/6/2010, như Hòa Bình: 41,8oC, Láng (Hà Nội): 40,4oC, Như Xuân (Thanh Hóa): 41,4oC, Quỳ Hợp và Con Cuông (Nghệ An): 42 và 42,2oC. Một số nơi ở Tây Nguyên xảy ra đợt nắng nóng kéo dài nhất trong hơn chục năm qua (từ ngày 18/3 đến 12/4/2010). Nắng nóng đã làm hàng trăm nghìn ha lúa, màu, cây công nghiệp thiếu nước tưới, làm hàng chục nghìn ha lúa ở Trung Bộ và Tây Nguyên mất trắng.
Ngoài hạn hán, các loại thiên tai khác như lốc, sét, lũ quét, mưa đá, bão và lũ lụt trong năm 2010 đã gây thiệt hại rất nặng nề về người và tài sản. Theo báo cáo tổng hợp của Văn phòng Ban chỉ đạo PCLB T.Ư, tính đến cuối tháng 11/2010, các loại thiên tai trên địa bàn cả nước đã làm chết 245 người, mất tích 50 người và 363 người bị thương. Số người chết và bị thương nhiều nhất chủ yếu do bốn đợt mưa to, lũ lớn gây ngập lụt ở các tỉnh Trung Bộ, với 218 người chết, 35 người mất tích, 198 người bị thương. Ước tổng thiệt hại về vật chất do lũ, bão, úng ngập (chưa kể hạn hán) trong năm 2010 khoảng hơn 15 nghìn tỷ đồng.
2.2. Kịch bản biến đổi khí hậu cho khu vực dãy Trường Sơn
1./ Nhiệt độ:
a) Nhiệt độ trung bình năm:
- Theo kịch bản phát thải trung bình, vào giữa thế kỷ 21, trên đa phần diện tích nước ta, nhiệt độ trung bình năm có mức tăng từ 1,2 - 1,6oC. Khu vực từ Hà Tĩnh đến Quảng Trị có nhiệt độ tăng cao hơn, từ 1,6 đến trên 1,8oC. Đa phần diện tích Tây Nguyên, cực Nam Trung Bộ có mức tăng thấp hơn, từ dưới 1,0 - 1,2oC. Đến cuối thế kỷ 21, nhiệt độ tăng từ 1,9 - 3,1oC ở hầu khắp diện tích cả nước, nơi có mức tăng cao nhất là khu vực từ Hà Tĩnh đến Quảng Trị với mức tăng trên 3,1oC, nơi có mức tăng thấp nhất là một phần diện tích Tây Nguyên và Tây Nam Bộ, từ 1,6 - 1,9oC.
- Theo kịch bản phát thải cao, đến cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình năm có mức tăng chủ yếu từ 2,5 đến cao hơn 3,7oC trên hầu khắp diện tích nước ta. Nơi có mức tăng thấp nhất, từ 1,6 - 2,5oC là ở một phần diện tích thuộc Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.
b) Nhiệt độ trung bình mùa
▪ Nhiệt độ mùa đông (tháng XII-II):
- Theo kịch bản phát thải trung bình, vào giữa thế kỷ 21, nhiệt độ mùa đông tăng từ 1,4 - 1,8ᴼC trên đại bộ phận diện tích ở phía Bắc (từ Đà Nẵng trở ra). Hầu khắp diện tích ở phía Nam (từ Quảng Nam trở vào) có mức tăng nhỏ hơn, từ 1,0 -1,4ᴼC.
Vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ mùa đông tăng từ 2,5 - 3,1ᴼC trên đa phần diện tích nước ta. Hầu hết diện tích các tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị có mức tăng cao hơn 3,1ᴼC. Phần lớn diện tích ở phía Nam (từ Quảng Nam trở vào) có mức tăng nhiệt độ từ 1,6 - 2,5ᴼC. Một phần nhỏ diện tích tỉnh Lâm Đồng có mức tăng từ 1,0 - 1,6ᴼC. Như vậy, mức tăng nhiệt độ ở phía Bắc cao hơn ở phía Nam.
- Theo kịch bản phát thải cao, vào cuối thế kỷ 21, trên phần lớn diện tích nước ta nhiệt độ mùa đông tăng từ 2,8 đến trên 3,7ᴼC. Riêng khu vực từ Nam Hà Tĩnh đến Quảng Trị có nhiệt độ tăng trên 3,7ᴼC. Phần lớn diện tích khu vực từ Khánh Hòa trở vào có mức tăng thấp hơn, từ 1,6 - 2,8ᴼC.
▪ Nhiệt độ mùa xuân (tháng III-V):
- Theo kịch bản phát thải trung bình, vào giữa thế kỷ 21, nhiệt độ mùa xuân tăng từ 1,2 - 1,6ᴼC ở đa phần diện tích nước ta. Khu vực Quảng Bình đến Quảng Trị có mức tăng từ 1,6 đến trên 2,2ᴼC. Đa phần diện tích Tây Nguyên có mức tăng từ dưới 1,0 - 1,2ᴼC. Vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ mùa xuân tăng từ 2,2 - 3,1ᴼC ở đại bộ phận diện tích nước ta. Khu vực từ Nam Hà Tĩnh đến Quảng Trị có mức tăng cao nhất, từ 3,1 đến trên 3,4ᴼC. Một phần diện tích Tây Nguyên có mức tăng thấp nhất, từ 1,3 - 2,2ᴼC.
- Theo kịch bản phát thải cao, tính đến cuối thế kỷ 21, nhiệt độ mùa xuân tăng từ 2,8 đến trên 3,7ᴼC trên đại bộ phận diện tích nước ta. Một phần diện tích Tây Nguyên có mức tăng từ trên 1,3 - 2,8ᴼC.
▪ Nhiệt độ mùa hè (tháng VI-VIII):
- Theo kịch bản phát thải trung bình, vào giữa thế kỷ 21, trên đa phần diện tích nước ta nhiệt độ mùa hè tăng từ 1,0 - 1,4ᴼC. Khu vực từ Hà Tĩnh đến Quảng Trị, một phần nhỏ diện tích Tây Nguyên có nhiệt độ tăng từ 1,4 đến trên 1,8ᴼC. Vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ mùa hè tăng từ 1,6 - 3,1ᴼC trên đại bộ phận diện tích cả nước. Khu vực từ Hà Tĩnh đến Quảng Trị, một phần diện tích thuộc Tây Nguyên có mức tăng từ 3,1 đến trên 3,7ᴼC; mức tăng nhiệt độ từ 1,0 - 1,6ᴼC xảy ra ở hầu hết diện tích từ Thừa Thiên – Huế đến Kon Tum.
- Theo kịch bản phát thải cao, vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ mùa hè tăng từ 2,2 đến trên 3,7ᴼC trên đại bộ phận diện tích nước ta. Khu vực từ Thừa Thiên Huế đến Kon Tum có mức tăng từ 1,0 - 2,2ᴼC.
▪ Nhiệt độ mùa thu (tháng IX-XI):
- Theo kịch bản trung bình, vào giữa thế kỷ 21, nhiệt độ mùa thu trên hầu hết diện tích nước ta tăng từ 1,0 - 1,6ᴼC, trong đó một phần diện tích thuộc Tây Nguyên, Nam Trung Bộ có nhiệt độ tăng từ 1,0 - 1,2ᴼC. Vào cuối thế kỷ 21, trên hầu khắp diện tích cả nước có nhiệt độ mùa thu tăng từ 1,6 - 2,8ᴼC. Từ Nam Hà Tĩnh đến Quảng Trị có mức tăng từ 2,8 đến trên 3,1ᴼC. Một phần nhỏ diện tích thuộc Tây Nguyên có mức từ 1,0 - 1,6ᴼC.
- Theo kịch bản phát thải cao, vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ mùa thu tăng từ 2,5 đến trên 3,7ᴼC ở hầu khắp diện tích nước ta, một phần diện tích Tây Nguyên có mức tăng từ 1,3 đến trên 2,5ᴼC.
▪ Nhiệt độ trung bình năm:
- Theo kịch bản phát thải trung bình, vào giữa thế kỷ 21, trên đa phần diện tích nước ta, nhiệt độ trung bình năm có mức tăng từ 1,2 - 1,6ᴼC. Khu vực từ Hà Tĩnh đến Quảng Trị có nhiệt độ tăng cao hơn, từ 1,6 đến trên 1,8ᴼC. Đa phần diện tích Tây Nguyên, cực Nam Trung Bộ có mức tăng thấp hơn, từ dưới 1,0 - 1,2ᴼC.
Đến cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình năm tăng từ 1,9 - 3,1ᴼC ở hầu khắp diện tích cả nước, nơi có mức tăng cao nhất là khu vực từ Hà Tĩnh đến Quảng Trị với mức tăng trên 3,1ᴼC. Một phần diện tích Tây Nguyên có mức tăng thấp nhất, từ 1,6 - 1,9ᴼC.
- Theo kịch bản phát thải cao, đến cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình năm có mức tăng chủ yếu từ 2,5 đến cao hơn 3,7ᴼC trên hầu khắp diện tích nước ta. Một phần diện tích thuộc Tây Nguyên có mức tăng thấp nhất, từ 1,6 - 2,5ᴼC.
Bảng 1. Mức tăng nhiệt độ (oC) trung bình năm so với thời kỳ 1980-1999
theo kịch bản phát thải trung bình (B2)
STT
|
Tỉnh, thành phố
|
|
|
|
Các mốc thời gian của thế kỷ
|
21
|
|
|
|
2020
|
2030
|
2040
|
2050
|
2060
|
2070
|
2080
|
2090
|
2100
|
1
|
Thanh Hóa
|
0,5
|
0,7
|
1,0
|
1,2 (1,0 - 1,4)
|
1,5
|
1,7
|
2,0
|
2,2
|
2,4 (2,2 - 2,8)
|
2
|
Nghệ An
|
0,5
|
0,7
|
1,1
|
1,4 (1,2 - 1,6)
|
1,6
|
1,9
|
2,2
|
2,4
|
2,6 (2,2 - 2,8)
|
3
|
HàTĩnh
|
0,6
|
0,9
|
1,3
|
1,7 (1,4 - 1,8)
|
2,0
|
2,4
|
2,7
|
2,9
|
3,1 (2,5 - 3,4)
|
4
|
Quảng Bình
|
0,6
|
1,0
|
1,3
|
1,7 (1,6 - 2,0)
|
2,1
|
2,5
|
2,8
|
3,1
|
3,3 (3,1 - 3,7)
|
5
|
QuảngTrị
|
0,6
|
0,9
|
1,3
|
1,7 (1,6 - 2,0)
|
2,1
|
2,4
|
2,7
|
3,0
|
3,2 (2,8 - 3,7)
|
6
|
ThừaThiên - Huế
|
0,5
|
0,8
|
1,1
|
1,4 (1,0 - 1,6)
|
1,7
|
2,0
|
2,2
|
2,5
|
2,7 (2,2 - 3,1)
|
7
|
Đà Nẵng
|
0,5
|
0,7
|
1,0
|
1,3 (1,2 - 1,4)
|
1,6
|
1,8
|
2,1
|
2,3
|
2,5 (2,2 - 2,8)
|
8
|
Quảng Nam
|
0,5
|
0,8
|
1,1
|
1,4 (1,0 - 1,4)
|
1,7
|
2,0
|
2,3
|
2,5
|
2,7 (2,2 - 2,8)
|
9
|
Quảng Ngãi
|
0,5
|
0,7
|
0,9
|
1,2 (1,0 - 1,4)
|
1,5
|
1,7
|
1,9
|
2,1
|
2,3 (1,9 - 2,5)
|
10
|
Bình Định
|
0,4
|
0,7
|
0,9
|
1,2 (1,0 - 1,4)
|
1,5
|
1,7
|
1,9
|
2,1
|
2,3 (2,2 - 2,8)
|
11
|
PhúYên
|
0,5
|
0,7
|
1,0
|
1,3 (1,0 - 1,6)
|
1,6
|
1,8
|
2,1
|
2,3
|
2,5 (2,2 - 3,1)
|
12
|
Khánh Hòa
|
0,5
|
0,7
|
0,9
|
1,2 (1,0 - 1,4)
|
1,5
|
1,7
|
1,9
|
2,1
|
2,3 (1,9 - 2,8)
|
13
|
NinhThuận
|
0,4
|
0,7
|
0,9
|
1,2 (1,0 - 1,4)
|
1,4
|
1,7
|
1,9
|
2,1
|
2,3 (1,9 - 2,8)
|
14
|
BìnhThuận
|
0,5
|
0,8
|
1,1
|
1,4 (1,2 - 1,6)
|
1,8
|
2,0
|
2,3
|
2,5
|
2,8 (2,2 - 3,0)
|
15
|
KonTum
|
0,5
|
0,7
|
0,9
|
1,2 (0,8 - 1,4)
|
1,5
|
1,7
|
1,9
|
2,1
|
2,3 (2,2 - 2,8)
|
16
|
Gia Lai
|
0,5
|
0,7
|
1,0
|
1,2 (1,0 - 1,6)
|
1,6
|
1,9
|
2,1
|
2,3
|
2,5 (1,6 - 3,1)
|
17
|
Đắk Lắk
|
0,5
|
0,7
|
0,9
|
1,2 (0,5 - 1,6)
|
1,4
|
1,7
|
1,9
|
2,1
|
2,3 (1,9 - 2,8)
|
18
|
Đắk Nông
|
0,4
|
0,6
|
0,8
|
1,1 (0,5 - 1,4)
|
1,3
|
1,5
|
1,7
|
1,9
|
2,0 (1,9 - 2,8)
|
19
|
Lâm Đồng
|
0,4
|
0,8
|
1,2
|
1,5 (0,5 - 1,6)
|
1,8
|
2,1
|
2,4
|
2,6
|
2,8 (1,6 - 2,8)
|
(Nguồn: Kịch bản Biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam, 2012 [1])
c) Nhiệt độ cực trị
▪ Nhiệt độ cực trị mùa đông (tháng XII-II):
- Theo kịch bản phát thải trung bình, vào giữa thế kỷ 21, nhiệt độ thấp nhất trung bình mùa đông tăng từ 1,0 - 1,2ᴼC trên hầu hết diện tích từ Khánh Hòa trở ra; tăng từ 1,2 - 1,5ᴼC trên khu vực từ Ninh Thuận trở vào. Nhiệt độ cao nhất trung bình tăng từ 1,2 - 2,2ᴼC trên hầu hết diện tích phía Bắc (từ Nghệ An trở ra); tăng từ 0 - 1,2ᴼC ở hầu khắp diện tích Trung Bộ và Tây Nguyên.
Vào cuối thế kỷ 21, trên đại bộ phận diện tích khu vực từ Bắc Phú Yên trở ra, nhiệt độ thấp nhất trung bình mùa đông tăng từ 2,0 - 2,2ᴼC; một phần diện tích Nam Tây Nguyên, cực Nam Trung Bộ có mức tăng từ 2,2 đến trên 3,0ᴼC. Nhiệt độ cao nhất trung bình tăng từ 2,2 - 3,2ᴼC trên đa phần diện tích từ Nghệ An trở ra; tăng từ 2,0 - 2,2ᴼC trên hầu hết diện tích Trung Bộ và Tây Nguyên.
▪ Nhiệt độ cực trị mùa hè (tháng VI-VIII):
- Theo kịch bản phát thải trung bình, vào giữa thế kỷ 21, nhiệt độ thấp nhất trung bình mùa hè có thể tăng từ 1,7 đến trên 2,0ᴼC ở đại bộ phận diện tích từ Thừa Thiên - Huế đến Ninh Thuận; ở Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên tăng từ 1,2 - 1,7ᴼC.
Nhiệt độ cao nhất trung bình mùa hè chủ yếu tăng từ 1,2 đến trên 2,0ᴼC ở hầu hết diện tích ở phía Nam (từ Thừa Thiên Huế trở vào); tăng từ 1,0 - 1,2ᴼC ở phần lớn diện tích thuộc Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên.
- Vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ thấp nhất trung bình mùa hè tăng từ 2,7 đến trên 3,2ᴼC ở đại bộ phận diện tích Trung Bộ; tăng từ 2,0 - 2,7ᴼC ở một phần diện tích Trung Bộ, Tây Nguyên. Nhiệt độ cao nhất trung bình tăng từ 2,2 - 3,2ᴼC ở Trung Bộ; tăng từ 2,0 - 2,2ᴼC ở Tây Nguyên.
▪ Nhiệt độ cực trị năm:
Theo kịch bản phát thải trung bình, vào giữa thế kỷ 21, nhiệt độ thấp nhất trung bình năm tăng từ 1,0 - 1,7ᴼC trên đại bộ phận diện tích nước ta; tăng từ 1,7 - 2,0ᴼC ở một phần nhỏ diện tích Nam Tây Nguyên. Nhiệt độ cao nhất trung bình năm tăng từ 1,0 - 1,7ᴼC trên phần lớn diện tích lãnh thổ; tăng từ 1,7 - 2,2ᴼC ở một phần diện tích Nam Tây Nguyên.
Vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ thấp nhất trung bình năm tăng từ 2,2 - 3,0ᴼC; trong đó, đa phần diện tích Nam Tây Nguyên có mức tăng cao hơn so với các khu vực khác (từ 2,7 - 3,0ᴼC). Nhiệt độ cao nhất trung bình năm tăng từ 2,0 - 3,2ᴼC.
Vào cuối thế kỷ 21, số ngày nắng nóng (nhiệt độ cao nhất trên 35ᴼC) tăng từ 15 - 30 ngày trên phần lớn diện tích cả nước. Một phần nhỏ diện tích Tây Nguyên có mức tăng từ 5 - 15 ngày.
2./ Lượng mưa
a) Lượng mưa mùa
▪ Lượng mưa mùa đông (tháng XII-II): Lượng mưa mùa đông ở Việt Nam có xu hướng tăng ở hầu hết diện tích phía Bắc (từ Quảng Bình trở ra), giảm ở hầu khắp diện tích phía Nam (từ Quảng Trị trở vào).
Theo kịch bản phát thải trung bình, vào giữa thế kỷ 21, hầu hết diện tích Bắc Trung Bộ có lượng mưa mùa đông tăng với mức phổ biến dưới 2%, riêng tỉnh Hà Tĩnh có mức tăng cao hơn, từ 2 đến trên 4%. Lượng mưa giảm từ 2 - 12% ở phía Nam (từ Đà Nẵng trở vào), trong đó, một phần diện tích thuộc các khu vực Tây Nguyên, cực Nam Trung Bộ có mức giảm nhiều nhất, từ 8 - 12%. Đến cuối thế kỷ 21, mức tăng của lượng mưa trên hầu hết diện tích Bắc Trung Bộ dao động từ 0 đến 6%. Lượng mưa giảm từ 2 đến trên 14% ở phía Nam, trong đó, Tây Nguyên, cực nam Trung Bộ có mức giảm cao hơn, từ 10 đến trên 14%. Theo kịch bản phát thải cao, lượng mưa trung bình mùa đông trên hầu khắp diện tích Bắc Trung Bộ tăng trên 4% (vào giữa thế kỷ 21) và trên 6% (vào cuối thế kỷ 21). Lượng mưa giảm ở Nam Trung Bộ, Tây Nguyên với mức giảm đến trên 10% (giữa thế kỷ 21) và trên 14% (cuối thế kỷ 21), nơi có mức giảm lớn nhất là ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
▪ Lượng mưa mùa xuân (tháng III-V):
Theo kịch bản phát thải trung bình, vào giữa thế kỷ 21, lượng mưa mùa xuân giảm ở hầu hết diện tích lãnh thổ nước ta, với mức giảm phổ biến ở khu vực từ Thanh Hóa trở vào từ 2 - 6%.
Đến cuối thế kỷ 21, lượng mưa mùa xuân trên phần lớn khu vực từ Thanh Hóa trở vào giảm từ 4 - 10%; ở đa phần diện tích Tây Nguyên và một phần nhỏ diện tích Trung Bộ có lượng mưa mùa xuân giảm từ 10 đến trên 14%.
Theo kịch bản phát thải cao, lượng mưa mùa xuân trên đại bộ phận diện tích phía Nam (từ Thanh Hóa trở vào), mức giảm phổ biến từ 2 - 6% (vào giữa thế kỷ 21) và từ 4 đến trên 14% (vào cuối thế kỷ 21), trong đó khu vực có lượng mưa giảm nhiều nhất là Bắc Tây Nguyên.
▪ Lượng mưa mùa hè (tháng VI-VIII):
Theo kịch bản phát thải trung bình, vào giữa thế kỷ 21, lượng mưa mùa hè trên toàn lãnh thổ đều tăng với mức tăng cao nhất có thể đến trên 6%. Mức tăng ở khu vực phía Bắc cao hơn so với khu vực phía Nam. Vào cuối thế kỷ 21, lượng mưa mùa hè tăng đến trên 14%. Trong đó, mức tăng thấp nhất (dưới 3%) ở khu vực Tây Nguyên.
Theo kịch bản phát thải cao, lượng mưa mùa hè tăng trên 6% vào giữa thế kỷ 21, và đến trên 18% vào cuối thế kỷ 21. Mức tăng thấp nhất ở khu vực Tây Nguyên.
▪ Lượng mưa mùa thu (tháng IX-XI): Tương tự như lượng mưa mùa hè, lượng mưa mùa thu cũng có xu hướng tăng trên toàn lãnh thổ.
Theo kịch bản phát thải trung bình, vào giữa thế kỷ 21, mức tăng cao nhất có thể của lượng mưa mùa thu trên khu vực phía Bắc (từ Quảng Bình trở ra) là khoảng 4%; khu vực phía Nam (từ Quảng Trị trở vào) có mức tăng từ 4 - 10%.
Vào cuối thế kỷ 21, trên lãnh thổ Việt Nam, lượng mưa mùa thu tăng đến 14%. Trong đó, khu vực tăng cao nhất là ở Bắc Tây Nguyên, một phần diện tích Nam Trung Bộ với mức tăng từ 10 - 14%.
Theo kịch bản phát thải cao, lượng mưa mùa thu tăng đến gần 10% vào giữa thế kỷ 21 và 18% vào cuối thế kỷ 21. Trong đó, trên khu vực Bắc Tây Nguyên, một phần diện tích Nam Trung Bộ có mức tăng cao hơn so với các khu vực khác.
b) Lượng mưa năm:
Theo kịch bản phát thải trung bình, mức tăng phổ biến của lượng mưa năm trên lãnh thổ Việt Nam từ 1 - 4% (vào giữa thế kỷ) và từ 2 - 7% (vào cuối thế kỷ). Tây Nguyên là khu vực có mức tăng thấp hơn so với các khu vực khác trên cả nước, với mức tăng khoảng dưới 1% vào giữa thế kỷ và từ dưới 1 đến gần 3% vào cuối thế kỷ 21.
Theo kịch bản phát thải cao, lượng mưa năm vào giữa thế kỷ 21 tăng phổ biến từ 1 - 4%, đến cuối thế kỷ 21 mức tăng có thể từ 2 đến trên 10%. Khu vực Tây Nguyên có mức tăng ít nhất, khoảng dưới 2% vào giữa thế kỷ và từ 1 - 4% vào cuối thế kỷ 21.
c) Lượng mưa ngày lớn nhất: Vào cuối thế kỷ 21, lượng mưa ngày lớn nhất ở Bắc Bộ có thể tăng khoảng 50% so với thời kỳ 1980-1999 và khoảng 20% ở Bắc Trung Bộ. Ngược lại, lượng mưa ngày lớn nhất giảm ở khu vực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ, với mức giảm vào khoảng từ 10 - 30%. Tuy nhiên, ở các khu vực khác nhau lại có thể xuất hiện lượng mưa ngày dị thường với lượng mưa gấp đôi so với kỷ lục hiện nay.
Bảng 2. Mức thay đổi lượng mưa ngày lớn nhất (%) vào cuối thế kỷ 21
so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch bản phát thải trung bình
Đặc trưng
|
Tây Bắc Bộ
|
Đông Bắc Bộ
|
Đồng bằng Bắc Bộ
|
Bắc Trung Bộ
|
Nam Trung Bộ
|
Tây Nguyên
|
Nam Bộ
|
Kỷ lục tuyệt đối
|
126
|
87
|
108
|
12
|
-40
|
0
|
-40
|
Trung bình
|
50
|
58
|
56
|
20
|
-35
|
-10
|
-20
|
3./ Kịch bản nước biển dâng cho Việt Nam
a) Theo kịch bản phát thải trung bình (B2)
Vào giữa thế kỷ 21, trung bình trên toàn Việt Nam, nước biển dâng trong khoảng từ 24 – 27cm. Đến cuối thế kỷ 21, nước biển dâng cao nhất ở khu vực từ Cà Mau đến Kiên Giang trong khoảng từ 62 – 82cm; thấp nhất ở khu vực từ Móng Cái đến Hòn Dấu trong khoảng từ 49 – 64cm. Trung bình toàn Việt Nam, nước biển dâng trong khoảng từ 57 – 73cm.
b) Theo kịch bản phát thải cao (A1FI)
Vào giữa thế kỷ 21, trung bình trên toàn Việt Nam, nước biển dâng trong khoảng từ 26 – 29 cm. Đến cuối thế kỷ 21, nước biển dâng cao nhất ở khu vực từ Cà Mau đến Kiên Giang trong khoảng từ 85 – 105 cm; thấp nhất ở khu vực từ Móng Cái đến Hòn Dấu trong khoảng từ 66 – 85 cm. Trung bình toàn Việt Nam, nước biển dâng trong khoảng từ 78 – 95 cm.
Theo Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường [1], nếu mực nước biển dâng 1m, sẽ có khoảng 39% diện tích đồng bằng sông Cửu Long, trên 10% diện tích vùng đồng bằng sông Hồng và Quảng Ninh, trên 2,5% diện tích thuộc các tỉnh ven biển miền Trung và trên 20% diện tích Thành phố Hồ Chí Minh có nguy cơ bị ngập; gần 35% dân số thuộc các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, trên 9% dân số vùng đồng bằng sông Hồng và Quảng Ninh, gần 9% dân số các tỉnh ven biển miền Trung và khoảng 7% dân số TP. Hồ Chí Minh bị ảnh hưởng trực tiếp; trên 4% hệ thống đường sắt, trên 9% hệ thống quốc lộ và khoảng 12% hệ thống tỉnh lộ của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng.
Thông qua việc “chồng” hình ảnh vệ tinh của NASA chụp từ nhiều năm trước với ảnh do vệ tinh quan sát Trái đất của Việt Nam VNREDSat-1 chụp năm 2013, các nhà khoa học của Cục Viễn thám quốc gia - Bộ Tài nguyên và môi trường ghi nhận được tình trạng xâm thực đang diễn ra rất mạnh trên khắp bờ biển của cả nước.
Những thông số liên tục từ ảnh vệ tinh từng năm của giai đoạn 2005-2010 cho thấy có đoạn phía đông Cà Mau bị lùi vào đến 200m trong 5 năm, nghĩa là trung bình bờ biển lùi sâu vào đất liền đến 40m/năm. Tại khu vực này, đường bờ bị biển bào mòn rất mạnh.
Nhưng đường bờ biển xâm lấn đất liền không chỉ ở Cà Mau. Trong hai năm qua Tổng cục Biển và hải đảo Việt Nam (VASI) - Bộ Tài nguyên và môi trường đã thực hiện một nghiên cứu toàn diện về tình trạng xói lở bờ biển trên cả nước. Theo đó, ở khu vực ven biển miền Bắc, từ Quảng Ninh đến Ninh Bình có bốn đoạn bờ bị xói lở liên tục, trong đó hai khu vực xói lở nghiêm trọng từ năm 1930 đến nay là Cát Hải và Hải Hậu. Ở miền Trung, từ năm 2005 các nghiên cứu đã chỉ ra trên 50% số đoạn bờ có chiều dài 1km bị xói lở. Thậm chí có đến 43% số đoạn xói lở 15-30m/năm, nhiều đoạn xói lở với tốc độ hơn 100m/năm. Riêng bờ biển phía Nam, trước năm 1940 bờ biển Vũng Tàu đến Hà Tiên hoàn toàn không bị sạt lở, nhưng từ năm 1960 đến nay, 38 đoạn của bờ biển phía Nam bị xói lở mạnh với nhiều đoạn ở mức trầm trọng, gây tình trạng lùi bờ rất dài như Ngọc Hiển, Đầm Dơi, Trần Văn Thời (Cà Mau), Đông Hải (Trà Vinh), Cần Giờ (TP.HCM)... Sau hơn 40 năm, bờ biển phía đông Cà Mau có đoạn đã “ăn” vào đất liền khoảng 1,5km.
Các tỉnh trên dãy Trường Sơn tuy không chịu ảnh hưởng trực tiếp của hiện tượng nước biển dâng, nhưng sẽ chịu ảnh hưởng gián tiếp của hiện tượng này. Đó là lượng dân cư tăng cơ học từ vùng ven biển và các vùng đất trũng ở đồng bằng. Khả năng tăng cơ học dân số ở vùng núi do “tị nạn khí hậu” tất yếu sẽ xảy ra.
III. Tác động của biến đổi khí hậu lên sự phát triển bền vững của Trường Sơn
Từ các phân tích về biểu hiện và Kịch bản BĐKH ở trên chúng ta thấy diễn biến của nhiệt độ và lượng mưa khu vực Trường Sơn phân hóa theo độ cao và theo hướng Bắc – Nam rất rõ rệt, vẽ ra hai mặt tác động của hiện tượng này: mặt tác hại là chủ yếu, tạo ra những thách thức chưa thể lường hết được về tài nguyên, môi trường và về kinh tế - xã hội, nhưng mặt khác, cũng tạo ra những cơ hội mới cho sự phát triển, mà nếu nắm bắt và ứng xử hợp lý, có thể mang lại những tác động tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của khu vực.
1./ Tác hại của BĐKH lên khu vực vùng núi Trung Bộ và Tây Nguyên
Tương tự như khu vực vùng núi phía Bắc, BĐKH cũng làm tăng các loại thiên tai ở khu vực vùng núi Trung bộ và Tây Nguyên. Cụ thể là:
- Trong mùa mưa bão, tuy không chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão và áp thấp nhiệt đới, song bão và áp thấp nhiệt đới khi đổ bộ vào các khu vực vùng duyên hải, vùng núi Trung Bộ và Tây Nguyên vẫn chịu tác động rất lớn. Các đợt mưa lớn gây lũ lụt, lũ quét, lũ bùn đá làm chết người, sạt lở đất, phá hủy đê điều, nhà cửa, mùa màng, đường giao thông;
- Trong mùa khô, nắng nóng dị thường kéo dài, mưa ít, dòng chảy kiệt, độ ẩm thấp gây hạn hán nghiêm trọng, làm cho tiến trình hoang mạc hóa khu vực này mở rộng hơn (Trung Bộ và Tây Nguyên được xếp là 2 trong bốn khu vực có nguy cơ cao bị hoang mạc hóa ở Việt Nam). Nguy cơ cháy rừng rất cao.
2./ Những cơ hội cần nắm bắt
Với địa hình nằm sát biển, có độ cao, lại kéo dài trên nhiều vĩ độ: với diện tích đất đai rộng lớn, có truyền thống canh tác lâu đời: đặc biệt, với sự phong phú tầm cỡ thế giới về đa dạng sinh học, kinh tế các tỉnh thuộc dãy Trường Sơn có thể ứng phó có kết quả với BĐKH nếu khai thác và phát huy tốt những cơ hội dưới đây:
- Lượng dân cư tăng cơ học từ vùng ven biển và các vùng đất trũng ở các đồng bằng. Khả năng tăng cơ học dân số ở vùng núi Trường Sơn do “tị nạn khí hậu “ là tất yếu, nhưng là bao nhiêu, khi nào và ở địa điểm nào thì cần chủ động xác định theo quy hoạch và dự kiến theo rủi ro, sự cố (bị động).
- Tương tự như vậy, mức độ gia tăng đầu tư, dịch chuyển trọng tâm đầu tư cho Trường Sơn sẽ tạo nhiều thuận lợi cho phát triển kinh tế trong khu vực. Đồng thời, việc phát triển này có thể được kế hoạch hóa cho cả giai đoạn dài đến giữa, thậm chí đến cuối thế kỷ 21 trên cơ sở các kịch bản BĐKH được hoàn thiện theo thời gian.
- Việc chủ động tổ chức không gian lãnh thổ nhằm phát triển bền vững kinh tế miền núi Trường Sơn ứng phó với BĐKH là khá cao, nếu ngay từ bây giờ chúng ta đẩy mạnh việc điều tra, nghiên cứu, đánh giá một cách hệ thống tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội Trường Sơn ứng với các kịch bản BĐKH, định hướng lâu dài cho việc phát triển của vùng này và sớm quy hoạch và xây dựng các trung tâm – động lực phát triển của toàn vùng.
Theo kinh nghiệm phát triển giai đoạn vừa qua, việc xác định các trung tâm – động lực vùng là rất quan trọng. Những địa điểm như Tây Nguyên, phía tây Thanh Hóa, tây Nghệ An,… có lẽ phải được sớm đưa vào tầm ngắm của sự lựa chọn này. Hai ba mươi năm cho việc định hình một trung tâm phát triển không phải là dài, trong khi đó, nói như cách người dân thường sử dụng “nước đã đến chân rồi”.
IV. Một số giải pháp ứng phó BĐKH nhằm phát triển bền vững kinh tế xã hội dãy Trường Sơn
Thích ứng với BĐKH ở các tỉnh thuộc dãy Trường Sơn, một mặt nhằm bảo vệ tính đa dạng sinh học do nhiệt độ và hạn hán gia tăng, hạn chế và giảm nhẹ khả năng tổn hại đối với các hệ thống tự nhiên (tài nguyên rừng, tài nguyên nước, tài nguyên đất...), xã hội (nơi cư trú và sức khỏe con người, các hệ thống cơ sở hạ tầng) do các thiên tai hiện hữu và các hiện tượng khí hậu cực đoan gây ra, mặt khác khai thác tốt các mặt thuận lợi để phát triển bền vững.
Các giải pháp chủ yếu có thể là:
1) Chi tiết hóa các kịch bản BĐKH cho các địa phương thuộc dãy Trường Sơn. Trên cơ sở Kịch bản BĐKH, cần tiến hành đánh giá cụ thể tác động của BĐKH và dự báo khả năng xảy ra các sự cố thiên tai, tiến tới thiết lập các bản đồ phân vùng nguy cơ xẩy ra thiên tai cho các vùng khác nhau, làm cơ sở cho việc xác định những nhiệm vụ tiếp theo của kề hoạch hành động (KHHĐ) ứng phó với BĐKH.
Đây là nội dung quan trọng đầu tiên của KHHĐ, là cơ sở để triển khai mọi nhiệm vụ và hoạt động có liên quan đến giải pháp ứng phó với BĐKH.
2) Nâng cao nhận thức về BĐKH, tác động của chúng và hành động giảm thiểu, ứng phó với BĐKH cho cộng đồng dân cư và các cán bộ quản lý các cấp tại các địa phương.
Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng và rất cần thiết của KHHĐ ứng phó với BĐKH.
Thực hiện tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các đối tượng trên về BĐKH và tác động của chúng và hành động giảm thiểu, ứng phó với BĐKH nhằm giúp họ nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, chủ động hơn trong phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai, cũng như trong việc bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản của Nhà nước, nhân dân.
3) Tăng cường năng lực ứng phó với BĐKH trong các lĩnh vực kinh tế tại các vùng.
Tăng cường năng lực về con người, trình độ chuyên môn cao, kỹ năng nghiệp vụ và các trang thiết bị, phương tiện cứu hộ cứu nạn hiện đại là nội dung cốt lõi nhằm ứng phó một cách hiệu quả nhất với BĐKH, giảm tối đa những thiệt hại do sự cố, thiên tai gây ra.
4) Xây dựng hệ thống chính sách, lồng ghép nhiệm vụ ứng phó với BĐKH trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội vào các kế hoạch, nhiệm vụ đảm bảo phát triển bền vững kinh tế của các địa phương.
Đây là một nội dung không thể thiếu, góp phần đảm bảo cho phát triển kinh tế chủ động hơn, đạt hiệu quả tốt nhất trong ứng phó với BĐKH.
5) Xác định các trung tâm – động lực vùng trên cơ sở nghiên cứu đánh giá đầy đủ và hệ thống tiềm năng về mặt tự nhiên và môi trường của khu vực ứng với các kịch bản BĐKH.
6) Phát triển và bảo vệ tài nguyên rừng, nâng cao chất lượng rừng, nhất là rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, bảo vệ các giống cây trồng quý hiếm, nhất là các loài cây thuốc, các loài hoa á nhiệt đới, ôn đới, động vật hoang dã gắn với hệ sinh thái rừng. Phát triển mô hình "đổi lương thực lấy rừng, đổi năng lượng lấy rừng". Phát triển mô hình du lịch sinh thái, du lịch vùng núi cao. Tăng cường trồng các loại cây có khả năng bảo vệ đất ven theo các tuyến đường, sông suối vừa có hiệu quả kinh tế cao, vừa có khả năng cản dòng chảy, chống xói mòn, chống sạt lở đất.
7) Phòng chống cháy rừng, ngăn chặn tình trạng chặt phá rừng bừa bãi bằng các cơ chế, chính sách định canh, định cư, giao đất, giao rừng, ổn định đời sống đồng bào dân tộc miền núi, xây dựng mô hình nông - lâm sinh thái kết hợp trên các vùng đồi, gò;
8) Phát triển, bảo vệ và khai thác hợp lý tài nguyên nước, tài nguyên đất, tài nguyên khoáng sản, áp dụng các kỹ thuật canh tác phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương. Chuyển đối cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sử dụng các giống thích ứng với điều kiện khô hạn, tăng tỷ trọng chăn nuôi trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp; xây dựng nền nông - lâm nghiệp sinh thái bền vững theo hướng sản xuất hàng hóa.
9) Quy hoạch và quản lý xây dựng, nhất là các khu dân cư nông thôn, miền núi, vùng ven sông, suối nhằm bảo vệ đời sống và sức khỏe nhân dân, bảo vệ môi trường; Quy hoạch khu tái định cư cho các vùng thường xảy ra thảm họa thiên tai.
10) Phát triển, hoàn thiện và khai thác tốt hệ thống thủy lợi, thủy điện.
11) Ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong canh tác và chăn nuôi, trong đó chú trọng phương pháp tưới tiết kiệm, hiệu quả, giữ ẩm, chăn nuôi gia súc có kế hoạch, hạn chế chăn thả gia súc tự do.
12) Tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực. Hợp tác quốc tế và khu vực giúp chúng ta đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ khoa học có trình độ cao tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm của các nước trong khu vực và quốc tế ứng phó với BĐKH; giúp các nguồn vốn đầu tư cho các dự án quan trọng về BĐKH, nhằm phát triển bền vững kinh tế - xã hội miền núi, trong đó có giao thông vận tải.
V. Kết luận và kiến nghị
1. Ứng phó với BĐKH nhằm phát triển bền vững kinh tế - xã hội khu vực Trường Sơn là công việc phức tạp, lâu dài, phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, song có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển bền vững không chỉ với khu vực Trường Sơn, mà còn với cả nước trong bối cảnh BĐKH.
2. Những nội dung được trình bày trong tham luận này chỉ là những suy nghĩ bước đầu của các tác giả, nhưng có thể là những gợi ý quan trọng cho các nghiên cứu liên quan.
3. Các tác giả của tham luận và các cộng sự có khả năng, kinh nghiệm và sẵn sàng tham gia vào việc điều tra, nghiên cứu, đánh giá về tài nguyên, môi trường, BĐKH và ứng phó với BĐKH nhằm phát triển bền vững kinh tế - xã hội các tỉnh thuộc dãy Trường Sơn, khu vực đã, đang và sẽ ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với đất nước.
Tài liệu tham khảo chính
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường. Kịch bản Biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam. Hà Nội, 2012.
2. Chiến lược quốc gia về ứng phó với BĐKH. Hà Nội, 2011.
3. Cục Môi trường (Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường). Môi trường trong lành - Phát triển bền vững. NXB Khoa học và Kỹ thuật. Hà Nội, 1994.
4. Hội BVTN&MT VN. Việt Nam – Môi trường và Cuộc sống. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2004.
5. Hội BVTN&MT VN. Bảo vệ môi trường và Phát triển bền vững. NXB Khoa học và Kỹ thuật. Hà Nội, 2008.
6. Nghị quyết BCH TW số 24 – NQ/TW về chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Hà Nội, tháng 3/2013.
7. Trương Hồng. Biến đổi khí hậu và sản xuất nông nghiệp vùng Tây Nguyên. Báo cáo kết quả nghiên cứu hhoa học. Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên. Tháng 4/2013.
8. Nguyễn Đức Ngữ (chủ biên). Biến đổi khí hậu. NXB Khoa học và Kỹ thuật. Hà Nội, 2008.
9. Nguyễn Ngọc Sinh & nnk. Tài nguyên và Môi trường Việt Nam. NXB Khoa học và Kỹ thuật. Hà Nội, 1984.
10. Nguyễn Ngọc Sinh (chủ biên). Bảo tồn đa dạng sinh học dãy Trường Sơn. NXB Tài nguyên và Môi trường. Hà Nội, 2011.
11. Nguyễn Ngọc Sinh, Phạm Đức Thi. Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu phục vụ phát triển bền vững kinh tế miền núi Việt Nam. Hội thảo khoa học “Biến đổi khí hậu toàn cầu và ở Việt Nam” Hà Nội, tháng 12/2013.
12. Phạm Đức Thi, Nguyễn Thị Thu Bình. Biến đổi khí hậu đã hiện hữu ở dãy Trường Sơn. Hội thảo khoa học: “Đa dạng sinh học dãy Trường Sơn” Hà Nội, tháng 3/2010.