Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ hiện đại, không ngờ, lại đưa giới khoa học nhất là Âu - Mỹ, tiệm cận với Thiền học có từ cả ngàn năm trước. Phân tích một số khía cạnh của khoa học công nghệ hiện đại như sản xuất gốm méo Phù Lãng, phát triển Du lịch Thiền, Bảo vệ thiên nhiên và môi trường cho thấy sự tích hợp giữa Khoa học công nghệ và Thiền học có thể đưa đến những kết quả không ngờ.
                             VACNE - Tap chí Khoa học và Tổ quốc đã đăng bài "Thiền và Khoa học công nghệ" của PGS. TS Nguyễn Đình Hòe, Trưởng Ban PBXH của VACNE trên số tháng 9 năm 2010. Theo yêu cầu của nhiều đọc giả, Tác giả đồng ý đăng lại bài này sau khi đã chỉnh sửa, bổ xung.Xin chia làm 3 số:
                     1. Thiền là  gì? Thiền vào Việt Nam
                     2.Du lịch thiền. Phù Lãng: Khúc thiền ca trong gốm méo. Thiền học với bảo 
                        vệ thiên nhiên và môi trường
                     3.Chim và người. Thảo luận.
Kỳ 1: Thiền là  gì ? Thiền vào Việt Nam
Nguyễn Đình Hòe - VACNE
 
Thiền là gì
Thiền  chỉ có thể “ngộ” được mà “không hiểu” được – các thiền sư vẫn nói vậy.  Vì Thiền trong các Phật đường là một kiểu nhận thức chủ yếu nhờ Thiền  định (Định tâm trong Tỉnh giác): “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm” có nghĩa là “chẳng thể viết ra được, truyền thụ bằng cách ngoài tất cả các cách truyền thụ, đi thẳng vào tâm”.  Vậy mà trên thế giới sách viết về thiền rất nhiều, chủ yếu là của các  nhà khoa học Âu – Mỹ. Họ ngộ thiền chủ yếu là bằng con đường Thiền quán  (Quán sát và Suy ngẫm). Hầu như không thể hiểu đủ về Thiền vì Thiền đỏi  hỏi rất nhiều sự cảm thụ ngoài khoa học, tuy nhiên cũng có thể tiếp cận  Thiền.
Hãy đọc hai cách diễn tả sau: 
1/Có yêu thì nói rằng yêu, không yêu thì nói một điều cho xong, sao nàng nửa đục nửa trong, lờ lờ nước hến cho lòng anh đau
2/Muốn bắt phải thả, muốn lấy phải cho, muốn nói nhiều thì hãy nói ít, muốn gần phải xa, muốn ghét phải yêu, muốn cao phải thấp
Hai cách diễn tả này có sự khác biệt nào? Cách thứ nhất biểu hiện ý tưởng thuần túy lôgic, còn cách 2 chứa đựng sự mâu thuẫn phi lôgic hay còn gọi là tư duy Thiền (Zen). Tư duy lo gic luôn đòi hỏi sự chứng minh khoa học, tư duy Zen đòi hỏi sự cảm nhận trong tỉnh giác. Có thể hiểu vấn đề bằng tư duy khoa học- nếu khoa học có thể chứng minh hay bác bỏ, nhưng muốn biết về vấn đề thì cần tư duy Zen- ngoài khoa học, cái biết trong Zen được gọi là ngộ.
Tiến  sỹ Suzuki, D.T. là nhà khoa học Nhật đầu tiên viết một bộ sách nổi  tiếng mà ngày nay vẫn được sử dụng như sách gối đầu giường cho những ai  muốn “hiểu” về Thiền học (chú ý: hiểu chứ không phải ngộ). Đó là  tác phẩm Thiền Luận đã được nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh dịch và  xuất bản năm 2005. Ông đã cố giải thích thật đơn giản Thiền là gì nhưng  cũng không mấy người hiểu được. Chúng ta thử cố đọc qua:
Thiền, cốt  yếu nhất, là nghệ thuật kiến chiếu vào thể tính chúng ta…khai phóng tất  cả năng lực nội tại và tự nhiên tích tụ trong mỗi người (tr. 9). Thiền  trực tiếp kêu gọi chứng nghiệm bản thân thay vì kiến thức của sách vở  (tr. 15).Trí thức là sự hiểu biết bằng giác quan, suy luận, có đặc điểm  là phân biệt và chấp ngã. Hãy để cho trí thức động dụng trong thế giới  riêng của nó, dầu sao cũng có chỗ dùng, nhưng đừng để nó cản trở dòng  đời (tr. 17).
Trong ý thức của chúng ta có mộtvùng  đất hoang chưa được khai phá hoàn toàn và triệt để. Cái đó thường được  gọi là Vô thức hay Tiềm thức. Vô thức là kho chứa đủ huyền năng bí lực.  Sự thức tỉnh Vô thức thông thường được gọi là Ngộ, có được nhờ tham quán  những lời nói và việc làm trào ra thẳng từ chỗ sâu kín không bị trí  thức và tưởng tượng che mờ (tr. 34).
Một (= Không) tức là Tất cả (= Sắc), Tất cả tức là Một-  chính trong cái chỗ “là Một” tuyệt đối ấy, Thiền đặt căn bản của Đạo  pháp (tr. 326). (Ngộ) là khám phá ra một thế giới mới chưa bao giờ hiển  lộ cho những người bị điên đảo vì luận giải Nhị nguyên (tr. 271).Thiền  không tin tri thức, không viện phép biện luận cổ truyền mà tự nắm lấy  vấn đề bằng những cách riêng (tr. 328).Trong Thiền không có gì là khuôn  là nếp hết. Mỗi người tự giải quyết nỗi khó khăn riêng bằng những cách  khác nhau. Đó là chỗ độc đáo của Thiền, đầy sinh khí sáng tạo (tr.337).  Thiền không thể cầu được trong ngôn ngữ văn tự, dầu vẫn dùng ngôn ngữ  văn tự để truyền đạt (tr. 358).Thiền là những cảm nghĩ hàng ngày của ta-  nghĩa là trong Thiền không có gì là siêu nhiên, là kỳ quặc, là cao  kiến, vượt ra ngoài cuộc sống hàng ngày (tr. 374). Thiền không phải để  giải thích, mà là để sống. Bằng không thì luận giải nào cũng chỉ là khái  niệm suông gây đau khổ vô lối và thất vọng ê chề (tr. 385)(4)
Thiền không phải  Phật giáo hay bất cứ tôn giáo nào. Thiền là một cách sống, một cách tư  duy. Chính Đại Đức Thích Đức Thiện trong lời dẫn cho cuốn sách Thiền là  gì (6) đã khẳng định rằng: “Thiền  không phải là tôn giáo cũng không phải là phép tu luyện thần thông, mặc  dù nhiều bậc thiền sư kiên trì công phu rèn luyện đã có những năng lực  siêu phàm. Thiền thực chất là một nghệ thuật đi vào đời sống mọi người”( tr. 5-6).
 
Thiền học vào Việt Nam
Các  phương pháp luyện tập Yoga của Ấn Độ giáo cổ xưa nhằm tiếp cận với cõi  vô thức đã xuất hiện khoảng 3000 - 3500 năm trước là xuất phát điểm của  Thiền. Trong số 8 kỹ thuật Yoga, kỹ thuật thứ 7 có tên tiếng Phạn là  Dhyana, có nghĩa là "tịch lự" - một hình thức chiêm nghiệm tĩnh lặng để  hiểu thấu những vấn đề bản thể thế giới và cá nhân. Khoảng 2500 năm  trước, Đức Phật Thích Ca Mầu Ni khi áp dụng Dhyana vào tu tập Phật pháp,  đã sáng tạo ra dòng Thiền đầu tiên trong lịch sử minh triết phương Đông  có tên là Thiền Thiên Trúc. Cũng trong khoảng thời gian đó, Đạo Lão  (Tử) đã xuất hiện ở Trung Quốc. Đạo là nguyên lý vận hành sự biến dịch  của thiên nhiên mà cơ bản là sự biến đổi và chuyển dịch giữa cái Vô (quy  luật) và cái Hữu (hiện tượng và sự vật cụ thể).
             Khoảng năm 520 CN, tức là 1000 năm sau khi xuất hiện dòng Thiền Thiên  Trúc Ấn Độ, vị sư tổ đời 28 của dòng Thiền Thiên Trúc là Bồ Đề Đạt Ma  sang truyền đạo ở Trung Quốc. Sự kết hợp giữa Dhyana và Đạo Lão đã làm  xuất hiện Thiền Tông Trung Hoa, được gọi là Ch'an (hoặc T'an). Ch'an đi  vào đời sống và đã góp phần phát sinh trường phái nghệ thuật Thiền nổi  tiếng với các tác phẩm tranh thuỷ mặc và thơ Thiền. Quân Nguyên tiêu  diệt nhà Tống khiến Ch'an đi vào thoái trào, nhưng đã kịp truyền bá sang  Nhật Bản (1).
             Đến đất nước Phù Tang, Ch'an gặp được mảnh đất màu mỡ để bén rễ xanh  cây, đó là Thần Đạo (Shinto) - một trong các tôn giáo cổ xưa nhất thế  giới. Shinto là sản phẩm của nền văn hoá nông nghiệp Nhật, vốn gắn chặt  và phụ thuộc vào thiên nhiên, hơn nữa lại là một thiên nhiên đầy rủi ro  động đất, núi lửa, trượt lở đất đá... Vì thế Shinto còn được gọi là "Tôn  giáo Kính thờ Thiên nhiên". Ngoài những lễ nghi và tập tục, Shinto còn  là sự biểu cảm sức mạnh và vẻ đẹp tự nhiên. Sự kết hợp giữa Ch'an Trung  Quốc và Shinto Nhật Bản tạo ra Zen (Thiền Nhật Bản). Ngày nay, Zen trở  thành phổ biến và là thuật ngữ tiếng Anh chính thức của Thiền. Zen không  chỉ là cách tụ tập của Phật giáo, mà còn là một lối sống có triết lí  giản dị nhưng thâm trầm, đậm sắc thái Nhật Bản hàng ngàn năm trở lại nay  của phần đông dân chúng (Thiền nhập thế).  Zen đi vào nhiều mặt của đời sống Nhật như điêu khắc, nghệ thuật tranh  Mặc hội (Sumiye), xây dựng các công viên Thiền (ví dụ điển hình là công  viên đá Royanji ở Kyoto), kịch No, kịch Kabuki, thơ Haiku 17 chữ, kỹ  thuật bắn cung, võ judo, kiếm đạo (Kendo), trà đạo (Chanoyu), nghệ thuật  cắm hoa (Ikebana), nghệ thuật nấu ăn, giáo dục con cái, chăm sóc nhà  cửa, kinh doanh và du lịch. Tầm cao của lối sống Nhật mang đậm phong  cách Thiền là Võ sĩ đạo (Bushido)... Đặc trưng chung của lối sống Thiền  là tĩnh lặng, giản dị, hướng về thiên nhiên, tạo lập cân bằng của tâm  hồn bằng cách hoà nhập cá nhân với thế giới thực tại, tăng cường năng  lực sáng tạo và giải toả stress do cuộc sống hiện đại gây ra (1).
             Du nhập sớm nhất của Thiền vào nước ta là dòng Thiền Thiên Trúc Ấn Độ  với Thiền sư Vinitaruci (Tini Đa lưu chi) ở chùa Dâu - Bắc Ninh (năm  580), 240 năm sau đến lượt dòng Thiền Vô Ngôn Thông từ Trung Quốc sang  (năm 820) ở chùa Kiến Sơ, Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội. Triều nhà Lý xây  dựng dòng Thiền Thảo Đường mang đậm dấu ấn Chămpa với 3 vua Lý là những  thiền sư của dòng này: Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông và Lý Cao Tông. Đến  thời Trần (thế kỷ 13), vua Trần Nhân Tông sáng tạo ra dòng Thiền Trúc  Lâm (3). Về cơ bản, các dòng Thiền trên là Thiền tông Phật giáo. Tuy nhiên, lối sống Thiền đặc biệt là dòng Thiền nhập thế Trúc Lâm Thiền tông đời Trần, theo  thời gian đã ảnh hưởng sâu đậm đến cuộc sống của nhân dân bên ngoài các  Phật đường. Không kể nghệ thuật bonsai và cắm hoa có ảnh hưởng từ Zen  Nhật Bản, dấu ấn Thiền trong đời thường còn gặp ở nghệ thuật ẩm thực  Việt Nam, nhất là ẩm thực Hà Nội và Huế, trong một số phong cách nghệ  thuật sắp đặt vườn nhà và nội thất, trong môn võ Thái cực trường sinh  đạo, trong nghệ thuật gốm méo ở Phù Lãng (Bắc Ninh), trong các dòng thơ  Thiền (Thiền thi) và ca nhạc Thiền (Thiền ca). Cũng còn gặp các Zen café  hay Zen spa ở một số thành phố du lịch.