Du lịch Thiền
             Chính vì những đặc trưng trên đây của Zen nên cư dân của các nước công  nghiệp phát triển Bắc Mỹ, Châu Âu, Nhật, Hàn Quốc... tìm đến Zen như một  hoạt động du lịch thư giãn. Nhu cầu du lịch Thiền  ngày càng gia tăng cùng sự gia tăng nhu cầu thư giãn của con người dưới  sức ép công nghiệp hoá và đô thị hoá, đã tạo ra doanh thu mỗi năm của Du lich Thiền ở Nhật đạt đến 30 tỷ USD. Du lich Thiền ở  Nhật không nhất thiết là một kiểu du lịch tách biệt, nó có thể xen ghép  với các loại hình du lịch thông thường khác và rất đa dạng. Trong một  hành trình đi bộ (hiking) thông thường, du khách có thể viếng thăm các  khu rừng lá đỏ (Momiji no ryoko), ngồi lặng lẽ trong những am cỏ nhỏ  nghe suối chảy róc rách, ngâm tắm nước nóng hay cát nóng, uống rượu ngắm  hoa anh đào (hanamizake)... Du lịch Thiền không  đòi hỏi đầu tư lớn về cơ sở hạ tầng hay đối tượng du lịch mà quan trọng  hơn là cách thưởng ngoạn, cách chiêm ngưỡng khu trú vào đối tượng để  hoà mình với đối tượng du lịch, do đó vai trò của người hướng dẫn du  lịch là rất quan trọng(2).
            Sự phát triển Du lịch Thiền  trên cơ sở một xã hội có phong cách sống Thiền đã khiến cho thiên nhiên  Nhật Bản được bảo vệ rất tốt. Chính Hội các đền thờ Shinto là tổ chức  đầu tiên đề xuất việc bảo vệ môi trường ở đất nước này.
             Vốn là một đất nước nông nghiệp truyền thống lâu đời, người Việt có tín  ngưỡng tôn kính thiên nhiên qua phong tục thờ các nữ thần như nữ thần  rừng núi (Thánh mẫu Thượng ngàn), nữ thần mây (Pháp Vân), nữ thần sấm  (Pháp Điện), nữ thần mưa (Pháp Vũ), nữ thần nước (Bà Thuỷ/Thoải), phong  tục cúng thần cây đa, ma cây gạo... Những hình thức tín ngưỡng cổ xưa  này có nhiều nét tương đồng với Shinto của Nhật và là mảnh đất thuận lợi  tiếp nhận các đợt sóng Thiền du nhập vào nước ta qua chiều dài lịch sử  dân tộc.
Phù Lãng: khúc thiền ca trong gốm méo
             Làng gốm Phù Lãng nằm trên những quả đồi thấp, trải dài xuống các vạt  phù sa hẹp trên bờ phải sông Cầu thuộc huyện Quế Võ - Bắc Ninh. Từ lâu,  Phù Lãng đã nổi tiếng trong và ngoài nước nhờ những sản phẩm gốm méo.  Sau khi dùng bàn xoay tạo xương các lọ lộc bình, nghệ nhân làm méo, làm  lõm, hoặc xẻ đôi miệng lọ rồi vặn chéo đi... có rất nhiều kiểu làm méo  mó chiếc lọ. Tại những chỗ méo đó, nghệ nhân thêm các hoa văn trang trí.  Sau khi nung chín, những chiếc lọ thật đa dạng với những cách méo mó,  xù xì rất khác nhau. Gốm méo Phù Lãng ngày càng được ưa chuộng, không  chỉ trong các hộ gia đình mà cả ở những khách sạn sang trọng. Các sản  phẩm gốm méo thu hút tâm trí người chiêm ngưỡng đến kỳ lạ. Chúng không  hề hoàn hảo, không kiêu sa, nhưng rất thực như cuộc sống. Chúng minh  chứng một triết lí của Thiền học cho rằng trong đời không có gì hoàn  hảo, rằng hoàn hảo là khô cứng, chính những gì không hoàn hảo mới là  thực sự hoàn hảo, vì chúng là đời thực, hơn nữa mỗi sản phẩm là duy nhất  trong thế giới này. Và cũng chính từ chỗ thiếu hoàn hảo đó đã phát sinh  sự sáng tạo, sự đa dạng đến vô cùng... tạo nên vẻ đẹp của cuộc sống.
  
             Cũng như các bài thơ Haiku, ở gốm méo Phù Lãng, những điều quan trọng  và cốt lõi nhất lại không phải là cái được nói ra hay nhìn thấy. Chúng  tiềm ẩn trong khoảng tĩnh lặng vô ngôn vô hình giữa các họa tiết xù xì,  bất đối xứng và không hoàn hảo mà người xem gốm chỉ có thể cảm nhận được  mà khó nói nên lời.Gốm  méo Phù Lãng là khúc thơ thiền không lời, cũng như thiên nhiên và những  con người nhân hậu mà ta có thể gặp mọi nơi trên đất nước này.
             Làng gốm Phù Lãng đón tiếp ngày càng đông không chỉ khách hàng mà cả  khách du lịch. Phù Lãng trở thành một điểm sáng giá trong loại hình du  lịch Thiền mới mẻ, nhất là nó lại nằm trên đường từ Hà Nội đi Yên Tử - quê hương của Trúc Lâm Thiền Tông
Thiền học với Bảo vệ thiên nhiên và môi trường
Tư  duy logic (Khoa học Công nghệ) và tư duy cảm nhận (Zen-Thiền) tưởng  chừng như hai mặt của một vấn đề, như nước và lửa, không có thể đi chung  một đường. Nhưng thực tế hai cách tư duy đó vẫn đi chung đường, vì  chúng là sản phẩm cuả một thực tại duy nhất. Triết lý “Tích hợp Đông  Tây” đã dần làm sáng tỏ khả năng này. Tuy nhiên, đây là cả một câu  chuyện dài. Horioka và cộng sự (2004) (1)  đã ghi nhận có 12  nguyên lý Thiền học là cơ sở của tranh Mặc hội và thơ Haiku của Nhật  Bản. Sau đó Nguyễn Đình Hòe (2006) đã xác nhận có đến 10 nguyên lý Thiền  học có thể ứng dụng tốt trong bảo vệ môi trường và phát triển bền vững (2). Cốt lõi của việc tích hợp này là tư duy nhất nguyên luận  cho rằng con người là một bộ phận không thể tách rời thế giới tự nhiên.  Nhà quản lý và người gây ô nhiễm thực ra cũng chỉ là một, xét về khía  cạnh các mặt đối lập của một hệ thống: nếu không còn ai gây ô nhiễm hay  xâm hại môi trường thì  cũng không còn ai phải làm nhà quản lý môi  trường nữa. Nơi nào mà con người với vũ khí khoa học công nghệ cho rằng  mình đứng trên, đứng ngoài thế giới thực tại (tức là Thiên nhiên và Môi  trường theo một nghĩa nào đấy) và có quyền uy tối thượng đối với thế  giới đó thì bảo vệ hay quản lý môi trường cũng chủ yếu là nói trên sách  vở mà thôi. Từ sự tách rời một cách nhị nguyên đó, mới sinh ra  các cách quản lý một chiều kiểu mệnh lệnh từ trên xuống (top-down  approach), mới xa lạ với những nguyên lý “biến quản lý thành tự quản  lý”, “đồng quản lý” vốn rất thành công ở nhiều nơi trên thế giới. Câu  chuyện người và chim dưới đây minh họa cho một nguyên lý Thiền học  là nhất nguyên luận trong bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường. Bạn đọc nên cảm nhận mà đừng cố “hiểu” vấn đề.