Việt Nam được coi là quốc gia có tính đa dạng sinh học (ĐDSH) cao nên quản lý và bảo vệ rừng đặc dụng (RĐD) từ lâu là vấn đề nóng của ngành lâm nghiệp. Hệ thống RĐD Việt Nam có vai trò rất lớn trong bảo vệ và bảo tồn các hệ sinh thái rừng, ĐDSH, cảnh quan thiên nhiên và các giá trị văn hóa, lịch sử môi trường nhưng cũng đang phải đối mặt với những bài toán hóc búa.
                              
 
Bị xâm hại khiến chất lượng rừng suy giảm là bài toán  không dễ giải với hệ thống rừng đặc dụng Việt Nam (Ảnh:  ThienNhien.Net)
 
Theo số liệu của Cục Kiểm lâm, đến năm 2010, Việt Nam đã thành lập được 164  khu rừng đặc dụng trên toàn quốc với tổng diện tích quy hoạch gần 2,2 triệu ha,  trong đó hơn 1,94 triệu ha là diện tích có rừng, chủ yếu là rừng tự nhiên, do  nhà nước trực tiếp quản lý. Với mục đích bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên ĐDSH  quan trọng, quý hiếm, đặc hữu, hệ thống RĐD đã và đang được nhà nước đầu tư bảo  vệ chặt chẽ và nghiêm ngặt thông qua lực lượng kiểm lâm và các ban quản lý vườn  quốc gia (VQG) và khu bảo tồn (KBT). Tuy vậy, dưới áp lực ngày càng tăng của đói  nghèo, sinh kế, ưu tiên phát triển kinh tế và thị trường (lâm sản và động vật  hoang dã), RĐD thường xuyên phải chịu đựng áp lực bởi hoạt động khai thác trái  phép, bị đánh đổi cho phát triển cơ sở hạ tầng (như giao thông, thủy điện,  khoáng sản, du lịch) và chuyển đổi mục đích sử dụng rừng và đất rừng. Chất lượng  rừng và ĐDSH thuộc hệ thống RĐD trên cả nước đã được cảnh báo đang suy giảm  nghiêm trọng, đặc biệt là các điểm nóng phá rừng ở nhiều VQG/KBT thuộc khu vực  miền núi phía Bắc, Tây Nguyên-Nam Trung Bộ và Bắc Trung Bộ. Thực trạng này, nếu  không ngăn chặn được, sẽ càng làm tăng thêm nghi ngờ về khả năng tồn tại của hệ  thống này trong tương lai, cũng như hiệu quả của các nguồn lực đầu tư to lớn  dành cho RĐD.
Đóng vai trò chủ đạo trong vấn đề này là lực lượng kiểm lâm. Biên chế nhà  nước của lực lượng kiểm lâm đến năm 2015 sẽ tiếp tục được bổ sung thêm 3000  người so với 10.059 biên chế năm 2010 (tương đương 01 biên chế/1000 ha rừng).  Tuy nhiên, đối với hệ thống 164 RĐD, đến cuối năm 2010 mới chỉ tổ chức được 88  Hạt kiểm lâm, trong đó 06 Hạt trực thuộc Cục Kiểm lâm; 36 Hạt trực thuộc Chi cục  Kiểm lâm và 46 gọi là “Hạt kiểm lâm” nhưng thực chất là lực lượng bảo vệ rừng  trực thuộc Ban quản lý RĐD, rừng phòng hộ. Số liệu này cho thấy mới chỉ gần 50%  khu RĐD thực sự có hạt kiểm lâm chuyên trách để bảo vệ rừng.
Quá trình phân quyền, chuyển giao quyền quản lý RĐD cho các địa phương trong  thời gian qua cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế khi UBND các tỉnh có thể ra các quyết  định chuyển đổi hoặc thu hẹp diện tích RĐD trên địa bàn. Điển hình của tình  trạng này chính là việc cấp phép cho các dự án xây dựng thủy điện và khai khoáng  của khối đầu tư tư nhân ngay sát và trong phạm vi VQG/KBT đã xảy ra ở nhiều địa  phương. Trong khi đó, vai trò và tiếng nói của cơ quan kiểm lâm, cơ quan bảo tồn  không đủ mạnh mẽ để ngăn cản sự xâm lấn vào nguồn tài nguyên mà họ được giao  trách nhiệm bảo vệ. Vấn đề này đặt ra yêu cầu cần phải đánh giá lại công tác  phân quyền quản lý RĐD như hiện nay và khả năng chuyển quyền quản lý tập trung,  thống nhất hệ thống RĐD ở Việt Nam trong tương lai.
Hiệu quả của công tác phối hợp liên ngành trong quản lý và bảo vệ RĐD vẫn còn  những hạn chế nhất định do thiếu tính liên tục, thường có tính chất đáp ứng với  các vụ việc nổi cộm sau khi bị báo chí và dư luận lên tiếng, mặc dù nhà nước đã  có các văn bản hướng dẫn về phối hợp giữa lực lượng kiểm lâm, công an, quân đội  trong công tác bảo vệ rừng , hay giữa lực lượng dân quân tự vệ với lực lượng  công an xã, phường, thị trấn, lực lương kiểm lâm trong công tác bảo vệ rừng .  Tình trạng phá rừng, khai thác gỗ lậu, tấn công kiểm lâm gây thương tích xảy ra  ở nhiều VQG/KBT trên toàn quốc, nhưng số lượng vụ việc bị khởi tố, truy tố tại  tòa án là rất ít. Trong khi đó, vai trò của chính quyền địa phương cơ sở trong  việc phối hợp với ban quản lý VQG/KBT ngăn chặn, xử lý khai thác, buôn bán lâm  sản trái phép vẫn còn rất hạn chế dù nhiều cam kết bằng văn bản đã được ký kết  giữa các bên; đồng thời yêu cầu về phối hợp (đồng) quản lý RĐD với cộng đồng địa  phương mới chỉ ở giai đoạn thử nghiệm và chưa thể hóa được thành chính sách cụ  thể.
Điểm mấu chốt của công tác quản lý, bảo vệ RĐD chính là hiệu quả thực thi  luật pháp của lực lượng kiểm lâm ở các cấp khác nhau. Gần đây, một số vụ việc  kiểm lâm nhũng nhiễu, tiếp tay cho lâm tặc phá rừng đã bị cơ quan pháp luật truy  tố, hay vi phạm quy trình làm việc đã đặt ra yêu cầu xem xét lại vấn đề đạo đức  công vụ, công tác đào tạo, năng lực thi hành luật pháp và giám sát tác nghiệp.  Rõ ràng, RĐD sẽ khó tồn tại nếu pháp luật không được thực thi triệt để.
Tóm lại, chính sách nhà nước về RĐD ngày càng được bổ sung và phát triển là  bằng chứng cho thấy chủ trương mạnh mẽ của Việt Nam trong công tác đầu tư, quy  trì quản lý và bảo vệ RĐD. Nhưng nếu chưa giải được những bài toán đã nêu trên  thì những nỗ lực này, ở một phạm vi nhất định, vẫn còn gây ra không ít băn khoăn  về vai trò và hiệu quả hoạt động của lực lượng kiểm lâm – lực lượng chủ chốt về  quản lý, bảo vệ rừng và tương lai của RĐD Việt Nam.
Nhóm NCCS, PanNature
(Thienhien Net)