Việt Nam được đánh giá là một trong 5 quốc gia chịu tác động lớn nhất của biến đổi khí hậu (BĐKH), những nghiên cứu chuyên sâu, xác định mức độ BĐKH cũng như mức độ ảnh hưởng của nó ở từng khu vực nhằm định ra các biện pháp ứng phó, thích nghi phù hợp với diễn biến mới nhất của BĐKH là rất cần thiết và có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội, môi trường và dân sinh. Đối với khu vực Trường Sơn, nơi hệ sinh thái được coi là phong phú, đa dạng vào bậc nhất ở Việt Nam thì việc đánh giá này càng có ý nghĩa lớn hơn trong hoạch định chiến lược bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học trong khu vực hiện đang bị đe dọa nghiêm trọng trước tác động của con người và BĐKH. Trong bài viết này, các tác giả bước đầu phân tích diễn biến của yếu tố nhiệt độ để đánh giá BĐKH đã thể hiện ở mức độ khác nhau trên khu vực dãy Trường Sơn.
TS. Phạm Đức Thi, KS. Nguyễn Thu Bình
Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam
Bài đăng trên Tạp chí Môi trường số 1+2 năm 2010, số báo Xuân Canh Dần
1. Biến đổi khí hậu đã tác động đến khu vực Bắc Trung Bộ
Cả cánh đồng chỉ còn một vũng nước ở xã Cẩm Tâm, huyện Cẩm Thủy, Thanh Hóa (Ảnh Bùi Đình Hiếu)
|
Bắc Trung Bộ, từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên Huế, nơi được coi là vùng có tính đa dạng sinh học vào loại cao nhất nước, cũng là nơi khí hậu thuộc loại khắc nghiệt với các thiên tai, trong đó phải kể đến bão, mưa lớn, ngập lụt, lũ quét, hạn hán, xâm nhập mặn. Nơi đây đang diễn ra sự suy giảm nghiêm trọng của môi trường và đa dạng sinh học dưới tác động của con người và BĐKH cũng như những khó khăn, chật vật của người dân chống trả với thiên tai trong cuộc mưu sinh ở một số địa phương.
Diễn biến của nhiệt độ
Để phân tích diễn biến nhiệt độ khu vực Bắc Trung Bộ, các tác giả đã lựa chọn 16 trạm có số liệu quan trắc trên 30 năm và coi giá trị trung bình 30 năm (1979-2008) là giá trị trung bình chuẩn để phân tích. So với thập niên 1979-1988, nhiệt độ không khí trung bình thập niên 1999-2008 cao hơn, rõ rệt nhất là vào các tháng chuyển tiếp (tháng 4 và tháng 10):
- Nhiệt độ trung bình năm phổ biến cao hơn từ 0.3-0.6oC, thấp hơn so với mức tăng ở khu vực Nam Trung Bộ-Tây Nguyên (phổ biến cao hơn từ 0.5-0.8oC, có trạm cao hơn 1oC);
- Nhiệt độ trung bình các tháng mùa đông cao hơn so với mùa hè. Trong 3 tháng chính đông (tháng 12-2), nhiệt độ trung bình phổ biến cao hơn từ 0.4-0.7oC, trong khi các tháng chính hè (tháng 6-8), nhiệt độ trung bình phổ biến cao hơn từ 0.2-0.3oC, một số trạm mang trị số âm. Điều đó cũng được thể hiện ở hai tháng tiêu biểu của mùa đông (tháng 1) và mùa hè (tháng 7);
- Mức độ phân hóa nhiệt độ theo chiều cao không được thể hiện rõ như ở Nam Trung Bộ-Tây Nguyên, song ở mức độ tương đối, có thể thấy ở độ cao trên 40m, nhiệt độ tăng rõ hơn và ổn định hơn so với các trạm ở độ cao thấp hơn.
Cũng như Nam Trung Bộ-Tây Nguyên, ở Bắc Trung Bộ nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn mùa hè rõ rệt, phù hợp với nhận định trong “Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam”.
Sự suy giảm đa dạng sinh học
Như chúng ta đã biết, nóng lên toàn cầu ảnh hưởng rất lớn đến đa dạng sinh học trên phạm vi toàn thế giới. Trong khi chờ đợi những công trình khảo sát, nghiên cứu khẳng định mức độ tác động của BĐKH đến đa dạng sinh học ở Việt Nam, các tác giả xin nêu một số thu nhận được từ chuyến khảo sát thực địa cuối năm 2008 tại một số địa phương ở Thanh Hóa và Hà Tĩnh.
Tại Cẩm Tâm (Cẩm Thủy, Thanh Hóa) - vùng khô hạn và lũ quét
Cẩm Tâm thuộc huyện Cẩm Thủy (Thanh Hóa) là một xã tiếp giáp giữa vùng đồng bằng và miền núi. Địa hình khá phức tạp, dạng lòng chảo, chủ yếu là đồi rừng và vùng đất thấp ven khe suối. Vào mùa khô, từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau: Lượng mưa bình quân chỉ đạt khoảng 25% tổng lượng mưa năm, có những tháng hoàn toàn không có mưa, thường rơi vào tháng 1, tháng 2 hàng năm; Nước các khe suối khô cạn, các hồ chứa bị bồi lấp không còn khả năng trữ nước, nguồn sinh thủy giảm tới trên 50%. Hạn hán không chỉ xảy ra trong mùa khô, nhiều năm còn xảy ra ngay trong mùa mưa. Đất khô nứt nẻ không trồng cấy được, kể cả ngô và sắn.
Hạn hán, thoái hóa đất khiến cho hệ sinh thái bị suy thoái trầm trọng. Vào những năm 60 của thế kỷ trước, rừng ở xã Cẩm Tâm chủ yếu là rừng cây lá rộng, mang tính chất rừng nhiệt đới, có hệ thực vật phong phú đa dạng về họ, loài; có các loại gỗ quý hiếm như: lát, lim xanh, táu, sến, dổi, de, trường mật...; các loại thuộc họ tre nứa như: luồng, nứa, vầu, tre, trúc...; các loại cây dây leo như mây, song, mộc thông, dọ, gắm, bông trang...; các loại thuộc thảm phủ như dương xỉ, trầu lốt, tàu bay và các loại nấm...; đặc biệt các loài thảo mộc có thể dùng chế biến dược liệu quý như cây quít ngọt (vỏ quả làm vị trần bì), quế, ổi, củ mài (hoài sơn), hà thủ ô... Đây cũng là nơi quần tụ và sinh sống của nhiều loài động vật như: hổ báo, hươu, nai, hoẵng, khỉ, lợn rừng, các loài bò sát và các loài chim; các đặc sản của địa phương như cua đá, ốc đá rất nhiều, đặc biệt là trứng kiến (còn gọi là trứng ngạt) đánh bắt vào mùa xuân, chiên mỡ ăn cùng xôi nếp nương rất ngon… Qua hơn 4 thập kỷ gần đây, tài nguyên rừng nơi đây đã bị cạn kiệt, các loài động thực vật như nêu ở trên không còn, kể cả những loài quý hiếm hoặc đặc sản của địa phương, thậm chí, do khô hạn, loài vắt trong rừng cũng mất hết; một số loại cây trồng như luồng tự nhiên trổ hoa, thân mềm ra (trước đây không hề có), lụi đi và chết hàng loạt. Tệ nạn chặt phá rừng bừa bãi trước đây cùng với BĐKH hiện nay là những nguyên nhân cơ bản làm gia tăng thiên tai trong khu vực.
Tại Kỳ Nam (Kỳ Anh, Hà Tĩnh ) – vùng “túi mưa, chảo lửa”
Với một địa hình đặc biệt, nằm trong thung lũng hẹp có độ dốc lớn kéo từ sườn núi dãy Hoành Sơn ra biển, ngay phía Bắc chân Đèo Ngang, ba phía Bắc, Tây và Nam đều bị án ngữ bởi núi, phía Đông giáp biển, tại Kỳ Nam đã hình thành chế độ tiểu khí hậu với nhiều loại thiên tai khắc nghiệt: hạn hán, mưa lớn, bão lũ và xâm nhập mặn...
Trong thời kỳ từ tháng 4 đến tháng 8, gió Tây khô nóng thường xuyên hoạt động với tốc độ gió mạnh cấp 6, cấp 7. Trong các thập kỷ gần đây luôn xuất hiện các đợt nắng nóng kéo dài, nhiệt độ không khí lên đến trên 40oC. Trước kia, nhiệt độ cao nhất ở Kỳ Nam thường là 37-390C nhưng nay là 40-410C, thậm chí có năm nhiệt độ lên tới 42-430C. Chế độ thời tiết những năm gần đây cũng trở nên thất thường hơn. Số lượng cơn mưa và lượng mưa có xu hướng thay đổi, số lượng cơn mưa ít đi nhưng cường độ lượng mưa lại tăng lên theo từng cơn. Lượng mưa năm bình quân dao động khoảng 2.600-3.000 mm, tập trung chủ yếu vào 3 tháng 9, 10 và 11.
Do nằm ở một vùng có địa hình đặc biệt, Kỳ Nam chịu tác động của nhiều loại thiên tai đan xen lẫn nhau, điển hình là hạn hán, xâm nhập mặn, mưa lớn, bão lũ gây tác hại kép đối với kinh tế, xã hội và dân sinh trong vùng.

Biển đã tiến sát vào hàng phi lao xã Kỳ Nam, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh.(Ảnh Bùi Đình Hiếu)
|
Khi tham vấn cộng đồng, những người cao niên và có kinh nghiệm sản xuất đều gọi Kỳ Nam là “túi mưa, chảo lửa”. Túi mưa, vì Kỳ Nam phải hứng chịu nhiều trận mưa lớn, có khi tới 500-800 mm dẫn đến lũ lớn, xói mòn đất. Chảo lửa, bởi gió Lào, nắng gắt.
Về hạn hán và xâm nhập mặn:Ở bên sườn khuất gió, hiệu ứng phơn, do gió Tây - Nam vượt qua dãy Trường Sơn, đã gây ra những đợt gió Tây khô nóng kéo dài với nhiệt độ cao, độ ẩm thấp, làm gia tăng tính khắc nghiệt của hạn hán vốn có tốc độ diễn biến nhanh tại Kỳ Nam, tác động mạnh đến môi trường sinh thái trong vùng, trong đó đáng chú ý là tình trạng cạn kiệt nhanh nguồn nước dân sinh của vùng cao gần núi và thiếu nước dân sinh của vùng thấp ven biển, vì nước mặn xâm nhập sâu vào nội đồng và vùng dân cư. Nước biển đã tiến sát vào hàng phi lao trước đây trồng cách mép biển 20-30m, mặn lấn sâu vào nội đồng và khu dân cư. Bên cạnh đó, hạn hán, thoái hóa đất khiến cho hệ sinh thái rừng bị suy thoái trầm trọng. Trước đây, Kỳ Nam vốn có tài nguyên rừng nhiệt đới đa dạng và phong phú động, thực vật. Có một số cây gỗ quý hiếm như lim, gọ đỏ, dổi, nhưng phân bố không đồng đều và bị tàn phá nặng nề vào những năm 80 của thế kỷ trước. Hiện nay về cơ bản, rừng tự nhiên đã và đang được phục hồi, nhưng chất lượng rừng bị suy giảm do đất bị khô hạn, bạc màu.
Mưa lớn, xói mòn, thoái hóa đất: Ở bên sườn đón gió Đông-Nam từ biển thổi vào, trong thời kỳ mùa mưa, nhất là ba tháng 9 đ ến 11, Kỳ Nam phải hứng chịu nhiều trận mưa với cường độ lớn, tới trên 500 mm/ngày. Lượng mưa lớn, tập trung, trong khi địa hình của Kỳ Nam lại có độ dốc cao, đã dẫn đến hiện tượng xói mòn, rửa trôi mạnh. Đất vốn đã bạc màu do khô hạn, lại bị rửa trôi do mưa lũ lớn, nên suy thoái nghiêm trọng.
Căn cứ kịch bản BĐKH (theo phát thải trung bình) của Việt Nam, đến năm 2050, nhiệt độ tại Bắc Trung Bộ tăng từ 1.3 – 1.8oC và đến năm 2100, tăng 2.6 – 3.2oC, cao hơn nhiều so với mức tăng nhiệt độ khu vực Nam Trung Bộ-Tây Nguyên, có thể nhận định, BĐKH sẽ gia tăng mạnh ở Bắc Trung Bộ với nhiều loại thiên tai khắc nghiệt hơn, là nguyên nhân chính gây ra sự thay đổi hệ thống sinh thái trong khu vực.
2. Biến đổi khí hậu đã hiện hữu ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên
Diễn biến của nhiệt độ
Tương tự như đã đánh giá cho vùng Bắc Trung Bộ, để phân tích, tính toán diễn biến nhiệt độ khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, các tác giả đã lựa chọn 10 trạm có số liệu quan trắc từ 30-33 năm, trong phạm vi kinh độ: 107.41-108.39 và vĩ độ: 11.32-11.58; riêng 3 trạm Đắc Tô, Liên Khương, Buôn Hồ có số năm quan trắc dưới 30 năm vẫn được đưa vào sử dụng trong phân tích. So với thập niên 1979-1988, nhiệt độ không khí trung bình thập niên 1999-2008 cao hơn rõ rệt, nhất là vào các tháng mùa đông và trên độ cao từ 100-800 m:
- Nhiệt độ trung bình các tháng mùa đông cao hơn hẳn so với các thời kỳ khác, tiêu biểu là tháng 1, phổ biến cao hơn từ 0.8-1.5oC, cá biệt có trạm cao hơn 1.7oC (Kon Tum). Trong 3 tháng chính đông (tháng 12-2), nhiệt độ trung bình phổ biến cao hơn từ 0.8-1.4oC, riêng Plei Ku (Gia Lai), cao hơn 1.76oC;
- Trong các tháng mùa hè, nhiệt độ trung bình phổ biến cao hơn 0.4-0.7oC. Trong các tháng chuyển tiếp (tháng 4 và tháng 10), mức tăng của nhiệt độ thấp hơn và không đều giữa các trạm;
Như vậy, ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn mùa hè rõ rệt, phù hợp với nhận định trong “Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam”. Điều này được thể hiện rõ trong diễn biến nhiệt độ của ba trạm: Phan Thiết ở bờ biển, Kon Tum (độ cao trên 500m) và Đà Lạt (độ cao trên 1500m) (hình 1, 2).
Tại các trạm trên, nhiệt độ mười năm gần đây (1999-2008) cao hơn so với hai chục năm trước, đặc biệt thể hiện rõ tại trạm Kon Tum, nhất là trong tháng 1.
Hình 1. Biến trình nhiệt độ không khí tại trạm Kon Tum và Đà Lạt
Nhiệt độ tăng có ảnh hưởng đến đa dạng sinh học tại Nam Trung Bộ-Tây Nguyên?
Các nhà khoa học trên thế giới nhận định, do nóng lên toàn cầu, các ranh giới nhiệt của các hệ sinh thái lục địa và nước ngọt sẽ dịch chuyển về phía cực, đồng thời cũng dịch chuyển lên cao hơn. Khi ấy các loài thực vật, động vật nhiệt đới có thể phát triển ở các vĩ độ cao hơn hoặc trên những vùng núi và cao nguyên cao hơn trước. Trái lại, các loài ưa lạnh bị thu hẹp lại, hoặc phải di cư đi nơi khác.
Tại Trung Quốc, giai đoạn 2001-2005, nhiệt độ lưu vực sông Dương Tử mới tăng ở mức 0,71 oC, các nhà khoa học đã cảnh báo “Nhiệt độ tăng đồng nghĩa với sự suy giảm đa dạng sinh học” trong khu vực này. Còn ở Việt Nam, sự suy giảm đa dạng sinh học đã được nhiều nhà khoa học báo động trong nhiều công trình nghiên cứu từ những năm trước. Song, còn rất hiếm những công trình khảo sát, nghiên cứu khẳng định mức độ tác động của BĐKH đến đa dạng sinh học. Đây là công việc cấp bách, nhưng không phải dễ dàng đối các nhà khoa học. Tuy nhiên, bằng những số liệu và cả bằng cảm nhận của mình, các nhà khoa học cũng như nhiều người dân đã thấy rõ tác động của BĐKH đối với đa dạng sinh học.
Có thể dẫn ví dụ tại một tỉnh ở vùng núi Bắc Bộ, tỉnh Lào Cai. Từ đầu năm 2009 đến tháng 7, ở Lào Cai đã diễn ra 8 đợt nắng nóng với nhiệt độ cao nhất đạt 38.5oC (Ở TP Lào Cai và huyện Bảo Yên); ở “xứ lạnh” Sa Pa nhiệt độ cũng lên cao tới 27,2 độ C. Hiện tượng dị thường của thời tiết, sự nắng nóng khác thường nêu trên chứng tỏ sự nóng dần lên của khí hậu toàn cầu, trong đó Lào Cai đã chịu tác động khá rõ rệt.
Theo kết quả điều tra sơ bộ của Ban quản lý Vườn quốc gia Hoàng Liên (tiến hành từ năm 2003-2007), hiện đang có sự dịch chuyển lên cao của một số loài cây đặc trưng thuộc các vành đai thực vật (phân bổ theo độ cao) khác nhau. Tiêu biểu trong số đó có thông Vân Sam Hoàng Liên, một loài thông chỉ tìm thấy duy nhất tại Hoàng Liên Sơn và được ghi trong sách đỏ thế giới, trước đây chỉ sinh trưởng ở độ cao 2.200m - 2.400m, thì nay chỉ có thể gặp ở độ cao 2.400m-2.700m. Một số loài cây đặc hữu khác (chỉ có ở Hoàng Liên Sơn) như Thích Xi Pan, Thích Sa Pa, trước đây chỉ sinh trưởng ở độ cao dưới 1.700m nay đã bắt gặp ở độ cao trên 2.000m và nhiều loài thực vật khác cũng đang “leo” dần lên cao chiếm chỗ của các loài cây đặc hữu xứ lạnh.
Theo Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Lâm Đồng, khí hậu (điều hòa, mát mẻ, trong lành) - tài sản lớn nhất của Đà Lạt - đang bị đe dọa chưa từng có trong lịch sử hình thành đô thị cao nguyên này. Nhiệt độ ở thành phố Đà Lạt đang nóng dần lên, sự khắc nghiệt gia tăng với biên độ nhiệt dãn cách đột biến chưa từng thấy: chênh nhau giữa nhiệt độ cao nhất và thấp nhất bình quân từ 8-10 độ trong những năm trước đây nay tăng lên 12-15 độ. Ngay cả kỳ El Nino khốc liệt vào năm 1997, khí hậu Đà Lạt cũng không rơi vào tình cảnh như hiện tại.
Từ những ví dụ trên có thể thấy, hiện tại đã có những “chuyển động” của hệ sinh thái ở những vùng núi tại Việt Nam. Dãy Trường Sơn không thể đứng ngoài ”chuyển động” đó. BĐKH đã hiện hữu ở dãy Trường Sơn. Đánh giá tác động của BĐKH tới toàn bộ hoạt động kinh tế-xã hội nói chung và hệ sinh thái nói riêng là rất cần thiết, đòi hỏi một Chương trình tổng hợp với sự tham gia của nhiều chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực có liên quan cũng như của cộng đồng, nhằm bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học ở dãy Trường Sơn trong bối cảnh tác động ngày càng mạnh hơn của BĐKH.