Nguyễn Thánh Ngã (Lâm Đồng)

Lớp con cháu sau  này, sẽ không ai tưởng tượng nổi gánh nặng lo toan là thế nào đâu. Chỉ một mình  mẹ quanh năm ruộng đồng, đầu tắt mặt tối, chồng con vất vả, thế mà đám giỗ vẫn  tươm tất, vẫn đâu vào đấy để được lòng bà con xa gần trong gánh họ.
Thuở còn thơ, tôi đâu biết gánh nặng ấy là gì, mẹ lo toan bao nhiêu thì bọn  tôi vui mừng khấp khởi bấy nhiêu. Chỉ mong đến giỗ ông, giỗ bà để được ăn bánh…  ít ! Thú thật là được ăn ngon, ăn nhiều thứ, nhưng bọn trẻ chúng tôi thì gắn bó  với bánh ít. Loại bánh ấy quả thật không được nhiều lắm, và được hiểu là dành  cho bọn trẻ con. Vì thế, bánh ít bao giờ cũng hậu hĩnh nằm trong túi trẻ con,  trở thành hồn vía tuổi thơ của nhiều người. Tôi dám đoán chắc rằng người Việt  mình không ai là không biết bánh ít, và chưa từng ăn bánh ít. Có thể sẽ có người  cãi lại rằng có đấy, những người Việt ở nước ngoài sinh sau năm 1975 ít biết.  Cũng đúng, nhưng lớn lên tìm về nguồn cội họ sẽ biết; có điều là những kỷ niệm  ấu thơ làm nên hồn vía của bánh ít thì ít có người được tận hưởng mà thôi.
Xa quê vì miếng cơm manh áo, được đi nhiều, ăn nhiều và khổ nhiều. Hoàn cảnh  thay đổi đã làm những bữa cỗ cũng phai lạt dần. May mà còn có mẹ. Hỏi mẹ, mẹ nói  đã gọi là bánh ít rồi mà còn hỏi, ông bà ta đã gọi thế thì có bao giờ sai đâu.  Sở dĩ gọi bánh ít vì ngày xưa, đơn giản là thứ bánh này chỉ được làm… ít thôi để  bổ sung cho mâm cỗ vốn đã đầy, lại còn thiếu chút ít hương vị mùa màng. Bánh ít  thật ra chỉ làm ít bột, ít đậu trông nho nhỏ dễ thương vừa vặn đón tay bọn trẻ.  Và ông bà xưa quan niệm rất khoa học rằng: “Ăn ít mới ngon!”. Không hiểu lời  giải thích của mẹ có đúng không, nhưng mẹ là người chân chất quê kiểng có sao  nói vậy. Tôi rất tin là đằng khác.
Nhà quê ngoại tôi trồng rất nhiều cây lá gai dùng làm bánh ít. Tôi đoán mò  rằng mẹ tôi biết làm bánh ít từ thuở 13 chăng, mà mỗi lần chuẩn bị làm bánh mẹ  tôi lại về ngoại lấy lá gai. Những chiếc lá có lông tơ và răng cưa đã in vào trí  nhớ tôi cho đến bây giờ. Mẹ xé lá gai làm đôi, bỏ gân lá đi rồi đem luộc chín,  giã nhuyễn vắt lấy nước. Cái thứ nước sóng sánh có màu xanh đậm rất đẹp ấy, sẽ  trộn vào bột nếp hương mẹ xay để qua đêm và gút sạch mấy lần. Còn cái công đoạn  lấy lá chuối thì mẹ dành cho chúng tôi để lấy công. Bọn chúng tôi chọn lá chuối  đẹp đem về phơi héo, năm nào lá rách nhiều thì dùng lá khô. Đặc biệt lá chuối  khô lại có hương vị riêng của nó. Mẹ đã làm sẵn nhân đậu xanh thành từng nắm  tay. Khi ba tôi quết bột xong, mẹ ngồi bên chiếc nong bắt đầu gói bánh. Từng  viên bột đen nhánh được mẹ ngắt ra, vo tròn rồi đặt vào lá chuối đã được bôi dầu  phộng cho khỏi dính lá khi bóc ra ăn. Mẹ dùng ngón tay cái đè bẹp viên bột, cho  cục nhân vào rồi bao bột lại, gói lá chuối hai lớp hình chóp nón. Một chiếc dây  chuối nho nhỏ xinh xinh buộc chặt, để bọn trẻ dễ ngoéo ngón tay vào xách đi  toòng teng… Rồi niềm háo hức nhất là chờ bánh chín. Lũ chúng tôi ngồi quanh bếp  lửa, hơi bánh từ trong nồi tỏa ra thơm ngát. Bọn con trai hít hà, bọn chị tôi  chụm thêm củi vào cho đầy ngọn. Khi mẹ giở nắp ra lần thứ ba, nghĩa là bánh đã  chín. Mẹ sắp bánh vào đĩa cúng ông bà, còn lại chiếc bánh lẻ mẹ nhét vào cái tay  háo ăn của tôi, niềm vui sướng tột cùng. Hôm sau thế nào bọn tôi cũng được cầm  những chiếc bánh ít xách lon ton và bỏ vào túi áo, đêm nằm ngủ cứ hít hà chảy  nước dãi để dành đến sáng mới được thưởng thức mùi bánh thơm ngon thấm vào từng  kẽ răng đầu lưỡi. Không hiểu vì sao chứ hương vị bánh ít ngày xưa ngon hơn bây  giờ nhiều lắm. Có lẽ mỗi loại đồ vật, mỗi loại quà bánh đều có chút hồn quê  kiểng thơm tho mộc mạc trong đấy, nếu ta không được vui hưởng cả tâm hồn thì  phần vật chất cũng không thấm thía mấy để chúng ta nhớ đời chăng? Và cái hình  ảnh sâu đậm nhất là hình ảnh cha tôi quết bột tháo mồ hôi, mẹ tôi ngồi gói từng  chiếc bánh. Chúng tôi cũng được dự phần vào đấy là đi lấy lá chuối và chụm lửa  chờ bánh chín, niềm vui nôn nao, thèm thuồng và mừng rỡ ấy đã tạo nên cái ngon  cho từng chiếc bánh. Rồi trong đám giỗ, bánh ít được chia rất… nhiều ! Mỗi người  bà con hoặc khách khứa của gia đình sau khi dùng bữa ra về đều được mẹ tôi cẩn  thận gởi một gói quà nho nhỏ. Đó là gói bánh ít đem về cho các bạn nhỏ ở nhà.  Khi mẹ tôi đi dự đám giỗ ở xa, niềm vui chờ đợi của tôi cũng thế, cũng nôn nao  và sung sướng khi mẹ trao gói bánh ít vào tay.
Bây giờ niềm vui ấy dẫu đã xa rồi, vẫn còn đọng lại trong tôi, trong mọi  người niềm vui về chiếc bánh ít… mà không ít chút nào cả. Bởi nó chứa đựng một  ký ức thanh bình, một hồn quê mộc mạc thân thương. Tết Trung thu, Tết Nguyên  đán, Tết Đoan Ngọ mùng 5 tháng 5, và những rằm lớn trong năm, giữa bạt ngàn bánh  Tây, bánh Tàu, chiếc bánh ta gói lá chuối giản dị nhỏ bé vẫn tồn tại, vẫn là món  quà quê kiểng gói trọn niềm yêu thương chân thật nhất. Mỗi lần cầm chiếc bánh ít  trong tay, tôi vẫn cảm thấy nôn nao với một cảm giác khó tả, quả thật bánh ít…  mà tình thì nhiều bao la…
(Quê Hương)