quản lý tòa nhà

logo Tạp chí TNMT-VACNE Vì Môi trường Xanh Quốc gia 2024
DIỄN ĐÀN MÔI TRƯỜNG

Đánh giá tác động môi trường và đánh giá môi trường chiến lược ở các nước Đông Bắc Á

Thứ Tư, 13/04/2016 | 09:53:00 AM

(VACNE) - Bài của PGS.TS. Lê Trình, Ủy viên BCH TƯ Hội Bảo vệ TN&MT Việt Nam trên Báo Xây dựng.

 

(Xây dựng) - Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và Đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) không xa lạ ở Việt Nam, tuy nhiên được thực hiện theo khuôn mẫu của quy định về nội dung và hình thức của Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN-MT).


Đây là yêu cầu cần làm theo quy định của tất cả các quốc gia, tổ chức quốc tế nhưng Việt Nam lại hạn chế về thời gian, nguồn lực chuyên gia nên thiếu tính nghiên cứu sáng tạo.

Trong khi đó tại nhiều quốc gia, ĐTM và ĐMC được quan niệm không chỉ là công cụ pháp lý cần phải thực hiện cho dự án hoặc chiến lược, quy hoạch, kế hoạch mà còn là các nghiên cứu khoa học về tác động đến môi trường tự nhiên, sức khỏe và xã hội. Theo quan điểm đó, ĐTM/ĐMC được thực hiện rất nghiêm túc, thu hút nhiều viện, trường đại học và nhà khoa học tham gia. Sau đây là một số thực trạng ĐTM và ĐMC ở một số quốc gia Đông Bắc Á mà Việt Nam có thể tham khảo.

ĐTM và cả ĐMC ra đời và phát triển sớm nhất tại Hoa Kỳ (ĐTM từ năm 1969, ĐMC từ thập kỷ 80 TK20) sau đó là Canada, Tây Âu, Australia, Đông Âu, Đông Á, Đông Nam Á. Tại 3 nước Đông Bắc Á, ĐTM mới được quy định bắt buộc cách đây 24 - 35 năm và ĐMC: chỉ mới được quy định bắt buộc cách đây 10-15 năm (chỉ sớm hơn Việt Nam vài năm). Do vậy đến nay ĐTM và ĐMC ở 3 quốc gia này còn khá nhiều hạn chế so với nhiều quốc gia nêu trên.

Tại Nhật Bản

ĐTM đã được giới thiệu vào Nhật Bản từ 1972, tuy nhiên đến năm 1984, Chính phủ mới quy định chính thức về thực hiện ĐTM cho các dự án và luật riêng về “Đánh giá tác động môi trường” được ban hành tháng 6/1997 (Hàn Quốc vào năm 1993, Trung Quốc vào năm 2003 đã ban hành “Luật đánh giá tác động môi trường”, trong khi ở Việt Nam, ĐTM vẫn chỉ là một chương trong Luật BVMT sửa đổi năm 2014).

Đặc điểm hệ thống ĐTM Nhật Bản là:

Số loại hình cần bắt buộc ĐTM rất hạn chế: ít hơn nhiều so với yêu cầu của Việt Nam. Chỉ có 13 loại hình dự án cần lập ĐTM (đường bộ, chỉnh trị sông, đường sắt, cảng hàng không, nhà máy điện, khu đổ thải, cải tạo đất, điều chỉnh sử dụng đất, khu dân cư mới, cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, cơ sở hạ tầng thành phố mới, tổ hợp trung tâm phân phối, phát triển đất ở và đất công nghiệp do các tổ chức chuyên dụng). Mỗi loại hình có một số kiểu dự án và được chia thành 2 loại (class) dự án: dự án loại 1 (class -1) và dự án loại 2 (class-2), theo quy mô hoặc diện tích. Mỗi loại có yêu cầu riêng về mức độ ĐTM. Tuy nhiên, số loại hình dự án cần ĐTM ít như vậy có thể không phù hợp với nước ta trong giai đoạn hiện nay.

(ii) ĐTM được thực hiện rất thận trọng cả khâu nghiên cứu lập báo cáo và khâu thẩm định: Một báo cáo ĐTM cần trung bình 3 năm (không rõ thời gian chờ thẩm định là bao lâu?) từ khi nghiên cứu đến khi được cấp phép thẩm định (ở Việt Nam thường chỉ mất 0,6-2,0 năm đối với dự án quy mô lớn cấp Bộ TN-MT thẩm định (kể cả thời gian chờ) và chỉ 3 - 9 tháng đối với dự án nhỏ do các Sở TN-MT thẩm định, nhưng bị nhiều bộ, ngành, nhà đầu tư than phiền). Chính sự thận trọng này giúp các dự án tại Nhật Bản hạn chế đến mức thấp nhất các tác động xấu đến môi trường tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, sự kéo dài quá trình ĐTM gây không ít khó khăn cho các nhà đầu tư và các cơ quan quản lý môi trường, do vậy đã có một số đề xuất “hợp lý hóa/đơn giản hóa (streamlining) quy trình ĐTM” với một số loại hình dự án đặc thù (xem phần 2).

(iii) Mặc dầu ĐTM Nhật Bản là tổng hợp các kết quả nghiên cứu khoa học, tuy nhiên chính các nhà nghiên cứu môi trường nước này cũng cho rằng, vẫn còn lạc hậu so với một số quốc gia phương Tây. Trong bài báo “Nhật Bản cần học gì về đánh giá môi trường của Canada”, tác giả Akane Otaka đã nêu một số ý sau:

- Ở Canada, đánh giá môi trường đã được đề xuất từ 1973 và Luật Đánh giá môi trường (Canadian Environmental Assessment Act - CEAA) đã được ban hành từ 1992 (giáo trình đầu tiên tác giả bài viết này học về ĐTM từ năm 1987 ở Delft là giáo trình của Canada).

- Nhằm khắc phục các điểm yếu về đánh giá môi trường, tăng hiệu quả của hệ thống đánh giá môi trường CEAA được sửa đổi vào năm 2012 với bổ sung các quy định:

+ Có hình phạt với các chủ đầu tư không lập báo cáo đánh giá môi trường;

+ Cấp kinh phí cho công tác tham vấn cộng đồng và thực hiện chương trình giám sát sau thẩm định (follow - up program);

+ Hợp tác và công bố thông tin tác động môi trường với dân chúng.

Theo tác giả, các quy định trên của hệ thống đánh giá môi trường của Canada là tiên tiến hơn Nhật Bản, do vậy Nhật Bản cần học tập.

Ở Trung Quốc

ĐTM và ĐMC đã được quy định và thực hiện tại Hồng Kồng - Trung Quốc trước cả Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Hiện nay, hệ thống ĐTM, ĐMC của Hong Kong đã hài hòa với các quốc gia tiên tiến: không chỉ xem xét các tác động đến môi trường vật lý, môi trường sinh học mà còn đến tác động xã hội, chú trọng sự tham gia cộng đồng và công khai thông tin minh bạch nên được đánh giá thuộc loại tốt nhất châu Á và Hồng Kông hiện nay được đánh giá là một trong các nước/vùng lãnh thổ có năng lực cạnh tranh tốt nhất, mức tham nhũng vào loại thấptrên thế giới (tốt hơn nhiều so với CHND Trung Hoa).

Trong khi đó, theo Triệu Tiểu Hồng (Zhao Xiaohong), Bộ Bảo vệ môi trường Trung Quốc, mặc dù đã ban hành Luật ĐTM từ 2003 và mỗi năm có đến 30.000 dự án lập ĐTM và ĐMC (thực chất là “ĐTM cho quy hoạch: Plan - EIA” đã được thực hiện cho các quy hoạch phát triển các vùng kinh tế, địa phương, ngành lĩnh vực, các lưu vực sông, các vùng kinh tế ven biển, vịnh biển… nhưng nhiều học giả Trung Quốc tự đánh giá: chất lượng ĐTM/ĐMC ở nước này vẫn còn nhiều vấn đề:

(i) Khi so sánh với hệ thống ĐTM của Trung Quốc với Hàn Quốc, Từ Hưởng Lan (Xu Xianglan), GS Trung Quốc giảng dạy ở Đại học Nam Seoul cho rằng các quy định và hiệu quả về ĐTM của Trung Quốc còn lạc hậu: nếu ở Hàn Quốc, ĐTM đã được đưa vào Luật từ 1981 và được bổ sung năm 1993 thì Trung Quốc mới có quy định về ĐTM từ 1990 trong Luật BVMT sau đó trong Luật ĐTM 2003. Hệ thống ĐTM của Hàn Quốc là tổng hợp và hiệu quả hơn, trong khi đó ĐTM ở Trung Quốc chú trọng “phòng ngừa là chính”, nặng hình thức, ít thực chất so với Hàn Quốc và với các nước tiên tiến trên thế giới.

(ii) Cũng tự đánh giá về chất lượng của hệ thống ĐTM/ĐMC của Trung Quốc Từ Hòa (Xu He) và Vương Huy Chí (Wang Huizhi), Trung tâm Nghiên cứu ĐMC - Đại học Nam Khai (Thiên Tân) cho rằng, hiện nay ĐMC ở Trung Quốc chỉ có hiệu quả ở mức tương đối tốt. ĐMC còn thiếu tính định lượng. Để ĐMC có giá trị dự báo cao hơn, cần phải giải quyết 2 vấn đề quan trọng:

- Xác định và xây dựng các chỉ thị (indicators) để đánh giá.

- Tìm các phương pháp định lượng và có thể đo lường được tác động và diễn biến môi trường do thực hiện quy hoạch.

(Đây cũng là các vấn đề mà Việt Nam cũng đang mắc phải, cần được nghiên cứu trong thời gian tới để báo cáo ĐMC không phải là tài liệu chung chung, minh họa cho ý đồ của C/Q/K, kém đặc thù và ít tính dự báo).

(iii) Thách thức trong ĐMC ở Trung Quốc: ĐMC ở Trung Quốc (được phát triển từ ĐTM cho quy hoạch) đã được đưa vào Luật ĐTM từ 2003 thể hiện cam kết của lãnh đạo đất nước về phát triển bền vững. Tuy nhiên, theo tác giả Lam Ken-che (Viện ĐTM Hong Kong), phần lớn các nỗ lực trong trong 10 năm qua chỉ là xây dựng quy trình và làm hoàn thiện các kỹ thuật, phương pháp đánh giá. Tuy nhiên về bản chất, các phương pháp sử dụng cho ĐMC (thực ra là ĐTM quy hoạch) là chưa phù hợp với sự thay đổi nhanh chóng của quy hoạch, sự tư nhân hóa các công ty nhà nước và thay đổi chính sách, chưa kể tác động do biến đổi khí hậu.

Tại Hàn Quốc

Dựa theo các thông tin từ Hội nghị này và Hội nghị ĐTM/ĐMC năm 2012 tại Jeju, cũng như qua khảo sát của chúng tôi tại Hiệp hội ĐTM Hàn Quốc (năm 2010) hiện nay ĐTM và ĐMC của Hàn Quốc là tiên tiến: cơ sở pháp lý về ĐTM/ĐMC rõ ràng, các phương pháp, quy trình đã được xây dựng hoàn chỉnh và ĐTM/ĐMC đã đi vào chi tiết, có nghiên cứu khoa học. Do vậy, ĐTM/ĐMC đang là công cụ tốt cho định hướng “Tăng trưởng xanh” với tham vọng đến 2020 Hàn Quốc trở thành 1 trong 5 quốc gia hàng đầu thế giới về Kinh tế xanh.

Các xu hướng chính trong nghiên cứu khoa học về ĐTM ở Hàn Quốc được tóm tắt trong báo cáo của Kim Taehyoung cho thấy, từ năm 2008 đến 2012, riêng Viện Môi trường Hàn Quốc (Korea Environment Institute - KEI) đã công bố 106 bài báo, trong đó có đến 57 nghiên cứu về ĐTM (chiếm 53,8%). Số lượng công trình nghiên cứu về các vấn đề môi trường đặc thù tăng nhanh và chiếm đến 70,4% tổng số công trình về ĐTM, trong khi số công trình về kỹ thuật ĐTM chỉ chiếm 18,9%.

Trong các năm gần đây, các công trình nghiên cứu về tác động do biến đổi khí hậu (BĐKH) và tác động sức khỏe, về năng lượng tái tạo ngày càng nhiều, trong đó số lượng công trình về BĐKH chiếm 4,4% trong tổng số các công trình trong 5 năm qua của KEI.

PGS.TS. Lê Trình (Viện Khoa học Môi trường và Phát triển)

Khánh Phương (Tổng hợp)

Lượt xem: 3344

Các tin khác

Việt Nam ủng hộ có thỏa thuận toàn cầu về ô nhiễm nhự

(25/04/2024 07:01:AM)

Căn bản về tái hoang dã

(22/04/2024 08:37:AM)

Một nền kinh tế xanh cần nhiều thứ hơn chỉ là trợ cấp

(20/04/2024 06:23:AM)

Thúc đẩy phát triển đô thị theo hướng xanh, bền vững

(03/04/2024 07:56:AM)

Nước đã cạn

(30/03/2024 06:46:AM)

Bảo vệ môi trường – Nền tảng để phát triển kinh tế bền vững

(28/03/2024 07:08:AM)

Chuyển đổi xanh trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

(26/03/2024 05:49:AM)

Một số suy nghĩ về chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ “nâu” sang “xanh”, từ khai thác thâm dụng tài nguyên thiên nhiên sang phát triển dựa vào hệ sinh thái, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn - Từ phân tích thực

(25/03/2024 06:28:AM)

Biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng lớn đối với Việt Nam

(24/03/2024 06:05:AM)

VIDEO

Truyền hình TN-MT Số 03: Bảo tồn Cây Di sản, Anh hùng ĐDSH, ...

Xem thêm

TRANG VÀNG MÔI TRƯỜNG VACNE