Hoàng tử Linh  Lang là con vua Lý Thái Tông. Theo tư liệu giới thiệu lịch sử di tích đã được  tổng hợp từ những văn bia trong đền của ban quản lý di tích, ngày 13 tháng Chạp  năm 1030, thứ phi của vua Lý Thái Tông sinh được một hoàng tử khôi ngô tuấn tú  tại phường Thụy Chương, ven hồ Dâm Đàm (nay là phường Thụy Khuê, hồ Dâm Đàm là  tên cũ của hồ Tây). Hoàng tử được đặt tên là Linh Lang, hay còn có tên gọi là  Hoàng Chân.
            
                
                    
                          | 
                    
                    
                        | Cổng đền Voi phục Thụy Khuê với đôi voi bằng đá đứng  chầu. | 
                    
                
            
            Năm 1077, trong  cuộc kháng chiến chống Tống, hoàng tử Linh Lang chỉ huy một đạo thủy quân đánh  mạnh vào cụm phòng thủ của tướng Quách Quỳ nhà Tống trên sông Như Nguyệt, tiêu  diệt nhiều quân địch buộc chúng phải rút lui. Nhưng đáng tiếc là cũng trong trận  chiến cuối này, hoàng tử Linh Lang đã hy sinh. Tiếc thương hoàng thúc, vua Lý  Thánh Tông đã sắc phong cho Linh Lang là Linh Lang đại vương thượng đẳng thần  (sắc phong cao nhất của nhà Lý). Đồng thời nhà vua truyền cho các làng xóm nơi  Linh Lang đã ở, đã đóng quân hoặc đi qua đều phải lập đền thờ ngài, cả thảy có  269 làng.
            Phường Thụy  Chương, nơi hoàng tử Linh Lang đã cất tiếng khóc chào đời là một trong những nơi  xây đền thờ ngài đầu tiên. Khi đó đền nằm cạnh sông Tô Lịch, ở phía Tây Nam  thành Thăng Long. Đến cuối thời Trần, đền được xây dựng lại, mặt quay ra hướng  Hồ Tây và ở vị trí như hiện nay.
            Ở Hà Nội có hai  ngôi đền cùng mang tên Voi phục. Ngôi đền ở Thủ Lệ nhiều người biết hơn vì nằm  giữa công viên và là trấn phía Tây trong Thăng Long tứ trấn. Tuy vậy, đền lại là  nơi xây dựng sau bởi vì theo cách lý giải của ban quản lý di tích đền Voi phục  Thụy Khuê , xưa, theo quy định của triều đình Lý, hễ cùng thờ một vị thần thì  ngôi đền nào xây sau sẽ phải làm với quy mô nhỏ hơn ngôi đền xây  trước.
            
            
            
            
            
            
             
            
            Trong đền  Voi phục ở Thụy Khuê hiện còn lưu giữ được khá nhiều hiện vật cổ. Đó là bộ nghi  trượng thờ trong hậu cung. Nhìn còn mới nguyên nhưng trên thân đã được dán ký  hiệu đánh dấu niên đại từ thời nhà Lê (do hội di sản văn hóa dân gian Hà Nội  thẩm định). Ngoài hiên chỗ bậc tam cấp còn hai đôi rồng đá được chế tác với  những nét hoa văn cách điệu. Không chi tiết tinh xảo như hình ảnh rồng đá thời  Nguyễn sau này. Những rồng đá ở đây được làm theo phong cách rồng thời Lý với  dáng uốn khúc của rồng, còn hoa văn là hình sóng nước, hoa lá.
            Nét đặc biệt  nữa, đền Voi phục Thụy Khuê có lẽ là một trong số ít ngôi đền được giới khoa  học  biết đến nhiều bởi lẽ ở đây có những cây muỗm cổ thụ gần ngàn năm tuổi. Ông  Tùng, trưởng ban quản lý di tích, kể, cách đây mấy năm có một đoàn các nhà khoa  học nước ngoài thuộc dự án khảo sát cây xanh của Liên Hiệp Quốc đến khảo sát các  cây muỗm ở đây đã kết luận cây ít tuổi nhất ở đây cũng trên 700 năm rồi… Tất cả  gồm 9 cây muỗm được trồng quanh đền với quan niệm văn hóa phương đông, con số 9  là số trường cửu.
            Đền Voi phục  Thụy Khuê với việc thờ vị thần là một vị tướng phò vua giúp nước, hy sinh nơi  trận tiền là một biểu tượng nhắc nhở về tinh thần dũng cảm hy sinh vì nền độc  lập dân tộc của nhân dân ta đáng được trân trọng và biết đến.
            (baodatviet.vn)