quản lý tòa nhà

logo Tri ân Tiền bối VACNE Thi đua Chào mừng Đại hội VIII
DIỄN ĐÀN MÔI TRƯỜNG

Phát triển sinh kế thích ứng với BĐKH theo cách tiếp cận dựa trên hệ sinh thái

Thứ Ba, 24/05/2016 | 09:09:00 PM

(VACNE) - Bài báo phân tích vai trò của đa dạng sinh học (ĐDSH) đối với phát triển sinh kế cộng đồng trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay


     

PHÁT TRIỂN SINH KẾ THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
THEO CÁCH TIẾP CẬN DỰA TRÊN HỆ SINH THÁI

Trương Quang Học1 và Hoàng Thị Ngọc Hà2

                           1.  Hội Bảo vệ thiên nhiên và Môi trường Việt Nam

1,2 Trung tâm Phát triển Cộng đồng Sinh thái, VUSTA

Đặt vấn đề:

Việt Nam là một nước nông nghiệp với khoảng 70% dân số sống ở nông thôn và 48% lấy nông nghiệp làm sinh kế, vì vậy, trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay, nông nghiệp được xem là lĩnh vực rất dễ bị tổn thương (Bộ NN&PTNT, 2014).

Đa dạng sinh học và biến đổi khí hậu có mối tương tác lẫn nhau và đều có ảnh hưởng tới phát triển sinh kế nông nghiệp. Một mặt, biến đổi khí hậu (BĐKH) làm gia tăng thiên tai cực đoan (đặc biệt là lũ lụt, hạn hán) và gây ra nước biển dâng (dẫn đến xâm nhập mặn tăng cường) đang gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến sinh kế. Mặt khác, các hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và phát huy các dịch vụ hệ sinh thái nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong phát triển sinh kế theo nghĩa cung cấp đầu vào cho các hoạt động sinh kế khác nhau, hỗ trợ cung cấp các giống, loài mới, đồng thời giảm nhẹ tác động của thiên tai đến mùa vụ và năng suất sinh kế. Bên cạnh đó, đa dạng sinh học, đặc biệt là các hệ sinh thái rừng còn giúp điều hòa khí hậu, đặc biệt là giúp giảm nhẹ BĐKH do cây xanh có vai trò như bể hấp thụ và lưu trữ cácbon.

Hưởng ứng Thông điệp của Ngày Quốc tế Đa dạng sinh học năm 2016 “Bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học phục vụ phát triển sinh kế cộng đồng” (Mainstreaming Biodiversity; Sustaining People and their Livelihoods), bài báo này nhằm phân tích vai trò và mối liên hệ giữa đa dạng sinh học và phát triển sinh kế cộng đồng trong bối cảnh BĐKH hiện nay.

Sự tương tác giữa đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu và sinh kế

Đa dạng sinh học là thuật ngữ mới được dùng trong thời gian gần đây (Convention of Biological Diversity - CBD, 1992) và được cho là một sản phẩm được hình thành của sự tác động qua lại giữa hai hệ thống tự nhiên và xã hội. “Đa dạng sinh học (ĐDSH) là sự phong phú của mọi cơ thể sống có từ tất cả các nguồn trong các hệ sinh thái trên cạn, ở biển và các hệ sinh thái dưới nước khác, và mọi tổ hợp sinh thái mà chúng tạo nên; ĐDSH bao gồm sự đa dạng trong loài (đa dạng di truyền hay còn gọi là đa dạng gen), giữa các loài (đa dạng loài), và các hệ sinh thái (đa dạng hệ sinh thái)” (CBD, 1992).

Đến nay, trên toàn cầu có khoảng 1,4 triệu loài sinh vật đã được mô tả và người ta dự đoán tổng số loài có thể lên tới 5, 10 thậm chí 30 triệu loài. Đa dạng sinh học là tài nguyên quý giá nhất của loài người, nhưng hiện nay đang bị suy thoái một cách nghiêm trọng và được cho là một trong hai thách thức lớn nhất về môi trường cho toàn thế giới (cùng với BĐKH).

Trong thế kỷ 21, BĐKH được cho là thách thức lớn nhất của nhân loại. BĐKH với các biểu hiện chính như nhiệt độ trung bình tăng, băng tan, nước biển dâng và gia tăng thiên tai cực đoan đang làm thay đổi toàn diện và sâu sắc quá trình phát triển và an ninh toàn cầu, tác động nghiêm trọng đến môi trường và các hệ sinh thái, đến đời sống và sản xuất của con người.

Như vậy, một mặt, sự suy thoái ĐDSH do tác động kép của các hoạt động của con người (khai thác thiên nhiên quá mức để phát triển kinh tế - xã hội và phát thải khí nhà kính gây ra BĐKH); mặt khác, khi ĐDSH suy thoái sẽ tác động tới các hoạt động sinh kế, làm cho đời sống của cộng đồng khó khăn hơn và làm giảm khả năng chống chịu trước tác động của BĐKH. Ngược lại, khi ĐDSH được bảo tồn sẽ hỗ trợ sinh kế cộng đồng phát triển bền vững hơn và tăng cường khả năng chống chịu của các HST trước BĐKH.

Cách tiếp cận dựa trên hệ sinh thái (EbA) trong quản lý tổng hợp tài nguyên, ứng phó biến đổi khí hậu và phát triển bền vững 

Cách tiếp cận hệ sinh thái/dựa trên HST (ecosystem/ecosystem based approach - EbA) là chiến lược do Công ước đa dạng sinh học đề xuất, đầu tiên là để quản lý tài nguyên đất, nước và sinh vật nhằm tăng cường bảo vệ và sử dụng bền vững các dạng tài nguyên này một cách công bằng. Cách tiếp cận này được xem là chủ đạo trong hoạch định các chính sách, thể chế quốc gia trong điều kiện của địa phương để quản lý tổng hợp tài nguyên nhằm thực hiện ba mục tiêu của CBD: i) Bảo tồn ĐDSH, ii) Sử dụng bền vững các thành phần của ĐDSH, và iii) Chia sẻ công bằng lợi ích thu được từ việc sử dụng tài nguyên di truyền.

Trong bối cảnh BĐKH hiện nay, cách tiếp cận dựa trên hệ sinh thái còn được áp dụng cho phát triển bền vững và ứng phó với BĐH. Vì: i) PTBV thực chất là bền vững về mặt sinh thái; Tác động của BĐKH, về thực chất, là tác động lên các hợp phần của HST và lên toàn HST nói chung, và, ứng phó với BĐKH về nguyên tắc cũng là các giải pháp phục hồi, duy trì tính cân bằng của HST, làm tăng cường sức khoẻ HST (Ban thư ký Công ước ĐDSH, 2010; Bộ TN&MT, 2013); ii) ĐDSH và BĐKH cần được giải quyết đồng thời với cùng mức ưu tiên; Chúng ta cần một tầm nhìn mới về ĐDSH cho một hành tinh khỏe mạnh và một tương lai bền vững của nhân loại (Ban Ki-moon, 2010); iii) Việt Nam trồng và bảo vệ gần 12.000 ha rừng ngập mặn chỉ mất khoảng hơn 1 triệu USD nhưng tiết kiệm khoảng hơn 7 triệu USD chi phí hàng năm cho công tác bảo dưỡng đê điều (TEEB, 2010). Theo đó, HST vừa là đối tượng nghiên cứu, vừa là cách tiếp cận khoa học (ecosystem based approach) vừa là giải pháp để giải quyết vấn đề (giải pháp mềm/giải pháp phi công trình/giải pháp kỹ nghệ sinh thái - ecological engineering solutions) để giải quyết các thách thức lớn nhất của nhân loại trong thế kỷ 21 (IGES, 2012).

Thích ứng với BĐKH dựa trên hệ sinh thái

Thích ứng dựa trên hệ sinh thái là gì?

Thích ứng dựa trên hệ sinh thái (ecosystem-based approaches for adaptation -EbA) là giải pháp hiệu quả để thích ứng với BĐKH, trong đó sử dụng tích hợp ĐDSH và các dịch vụ HST như một phần của chiến lược thích ứng tổng thể nhằm giúp con người thích ứng với tác động tiêu cực của BĐKH. Là một trong những yếu tố có thể có của một chiến lược thích ứng tổng thể, EbA sử dsụng việc quản lý, bảo tồn và khôi phục bền vững các HST để cung cấp dịch vụ sinh thái giúp con người thích ứng với các tác động của BĐKH (CBD, 2009). EbA nhấn mạnh vai trò của các hệ sinh thái tự nhiên - vốn tự nhiên, một trong năm nguồn lực cơ bản của hệ sinh thái – xã hội (tự nhiên, vật chất/ cơ sở hạ tầng, kinh tế, xã hội và chính sách). Vì thế, thích ứng với BĐKH dựa trên HST còn được coi là thích ứng tự nhiên (Colls, 2009).

Bên cạnh EbA còn một khái niệm nữa là EbM - Giảm phát thải KNK/giảm nhẹ BĐKH dựa vào hệ sinh thái (ecosystem based approach to mitigation) - sự giảm phát thải KNK bằng các giải pháp sử dụng thiên nhiên.

EbA và EbM trong thực tế còn được gọi là các giải pháp mềm (soft solutions) để phân biệt với các giải pháp cứng - các giải pháp công trình mà chúng ta thường dùng phổ biến hiện nay. Trong Sinh thái học, các giải pháp mềm được gọi là các giải pháp kỹ nghệ sinh thái (ecological engineerings).

Trung tâm Phát triển cộng đồng sinh thái (ECODE) (Hoang Thi Ngoc Ha and Truong Quang Hoc, 2015; Trương Quang Học, 2015; Trương Quang Học và nnk, 2015) đã đưa ra một sơ đồ về mối quan hệ giữa cấu trúc, chức năng của HST/hệ sinh thái, xã hội trong mối tương quan với sức khỏe, tính chống chịu với các tác động từ bên ngoài đối với hệ (bao gồm cả tác động của BĐKH) (Hình 1).

 




Hình 1. Khung lý thuyết xây dựng sinh kế bền vững thích ứng với BĐKH

Trong đó:

           Tính dễ bị tổn thương (vulnerability) do tác động của BĐKH: mức độ mà một hệ thống (tự nhiên, xã hội, kinh tế) có thể bị tổn thương do BĐKH, hoặc không có khả năng thích ứng với những tác động bất lợi của BĐKH.

Sức khỏe của HST (ecosystem health): năng lực (ability) của hệ, để một mặt, duy trì được cấu trúc tổ chức tự nhiên và xã hội của hệ, mặt khác, đạt được được các mục tiêu hợp lý và bền vững (reasonable & sustainable goals) của con người (Rapport et al.). Theo nghĩa đó, SKHST là năng lực duy trì được ba yếu tố: i) cộng đồng dân cư; ii) cơ hội kinh tế và ii) sức khỏe của con người và động vật, đồng thời cũng duy trì được các chức năng sinh học của HST. SKHST gồm ba thành tố: năng xuất sinh học, cấu trúc tổ chức của hệ và mối quan hệ tương tác giữa chúng.

Khả năng chống chịu (resilience): khả năng của một hệ thống (ví dụ, một hệ sinh thái-xã hội) có thể chịu được các tác động, các nhiễu loạn mà không bị phá vỡ và chuyển sang một trạng thái biến đổi về chất khác. Một hệ thống có khả năng chống chịu có thể hấp thu các nhiễu loạn, thay đổi hoặc điều chỉnh, sau đó tái tổ chức và vẫn giữ được các cấu trúc cơ bản và cách vận hành của nó (IUCN, 2006; Trương Quang Học, 2013; Trương Quang Học và nnk, 2015).

                        Tiêu chí xác định các giái pháp/chiến lược thích ứng dựa trên HST

            EbA là một khái niệm mới nên trong thực tế cần thiết phải có các tiêu chí để xác định rõ ràng thế nào là biện pháp/chiến lược thích ứng dựa trên HST. Có 4 tiêu chí được đề xuất: i) EbA phải nhằm mục đích hỗ trợ trực tiếp cho con người thích ứng với BĐKH/ làm giảm tính dễ bị tổn thương cho cộng đồng trước BĐKH; ii) làm tăng khả năng chống chịu (trực tiếp hay gián tiếp) của ĐDSH/HST; iii) Sử dụng thiên nhiên/ĐDSH và dịch vụ HST để giúp con người giảm bị tổn thương nhưng phải trên nguyên tác bền vững, có nghĩa là không làm tổn hại đến chúng, thậm chí còn hỗ trợ chúng phát triển; iv) Khi thiết kế các biện pháp thích ứng phải dựa trên cơ sở đánh giá đầy đủ tác động và tính dễ bị tổn thương theo các dẫn liệu về BĐKH cũng như các dự tính trong tương lai – tác động tiềm tàng) (CBD, 2009; Shaun, 2015). Nếu thiếu một trong các tiêu chí trên thì các giải pháp/chiến lược không thể được gọi là thích ứng dựa trên HST.

Tình hình nghiên cứu về EbA trên thế giới

Gần đây, EbA đã trở thành chiến lược chủ đạo cho thích ứng với BĐKH, theo nguyên tắc ứng phó với BĐKH là duy trì và tăng cường tính chống chịu, khả năng thích ứng, giảm nhẹ tính dễ bị tổn thương/rủi ro khí hậu nhằm hạn chế thiệt hại do BĐKH gây ra cho các hệ sinh thái-xã hội (IUCN, 2006, 2010; WB, 2008, 2010, CBD, 2010, 2014). EbA đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới và ngày càng chứng minh tính ưu việt của nó (WB, 2010; Munroe et al., 2011; Naumann et al., 2011; Munang et al., 2013; Doswald et al., 2014….).

Tổng hợp các nghiên cứu trên phạm vi toàn cầu theo hướng tiếp cận này trong ứng phó với BĐKH, Ngân hàng Thế giới đã xuất bản Sách “Convinient Solutions to Inconvinient True: Ecossystem-Based Approach to Climate Change” (Những giải pháp tiện lợi giải quyết thực tế phiền phức: Cách tiếp cận dựa trên HST để giải quyết vấn đề BĐKH) và khuyến cáo rằng Tiếp cận dựa trên HST phải được áp dung như cách tiếp cận chủ đạo nhằm thích ứng và giảm nhẹ BĐKH và phải là một nội dung quan trọng trong các chiến lược quốc gia, bao gồm cả thích ứng và giảm nhẹ BĐKH (WB, 2010). 

Gần đây, trên cơ sở phân tích toàn diện và hệ thống 164 bài báo khoa học về áp dụng EbA trong thích ứng với BĐKH, Doswald và nnk đã chỉ ra rằng: (i) Trên phạm vi toàn thế giới, các biện pháp can thiệp liên quan đến EbA được ứng dụng nhiều nhất ở các quốc gia châu Âu và cạnh đó là khu vực Đông Nam Á- châu Á; (ii) Các lĩnh vực áp dụng EbA phổ biến là nông nghiệp, bảo vệ nguồn nước, bảo vệ bờ biển, lâm nghiệp và sinh kế, nhằm; (iii) đạt các mục tiêu chính là giảm nhẹ rủi ro thiên tai, cung cấp sinh kế thay thế, điều tiết nước và dòng chảy, điều tiết cấp - thoát nước và lũ lụt, ... (iv) Hiệu quả của EbA được chứng minh là mang lại các lợi ích kép về môi trường, kinh tế và xã hội. Vẫn còn nhiều hạn chế và khoảng trống trong nghiên cứu và ứng dụng EbA, ví dụ như: vẫn thiếu việc ứng dụng EbA cho các HST cụ thể, còn có sự nhầm lẫn trong cách hiểu về EbA và các giải pháp gần giống EbA, thiếu các đánh giá định lượng về hiệu quả thành công của các giải pháp EbA cũng như so sánh EbA với các lựa chọn thích ứng khác, do đó dẫn đến khó khăn cho vận động chính sách về EbA. Đề xuất là các dự án hiện nay về EbA phải có hoạt động giám sát và đánh giá mang tính chiến lược về các kết quả đầu ra; cần có khung giám sát - đánh giá và có sự tham gia của các nhà hoạch định chính sách thông qua các chính sách thích ứng. Bài báo cũng đã tổng hợp kết quả phân tích chi phí – lợi ích của các can thiệp EbA ở nhiều quốc gia và kết luận EbA mang lại các lợi ích to lớn và lâu dài về xã hội, môi trường và kinh tế (Doswald et al, 2014).

Tình hình nghiên cứu và triển khai EbA ở Việt Nam

Trong ứng phó với BĐKH, ở Việt Nam cho đến nay vẫn sử dụng phổ biến cách tiếp cận (i) từ trên xuống (Top-down) - dựa chủ yếu vào các chủ trương, chính sách của Nhà nước từ trung ương đến địa phương và (ii) từ dưới lên (bottom-up) - dựa vào cộng đồng (cách tiếp cận chủ yếu của các tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế).

Trong thời gian gần đây, một số tổ chức quốc tế (SIDA, IUCN, WWF, GIZ, ...) đã cộng tác/hỗ trợ cho các viện nghiên cứu của Việt Nam (Viện Chiến lược và chính sách phát triển của Việt Nam) và một số địa phương triển khai thí điểm một số dự án áp dụng EbA trong thích ứng với BĐKH tại Hải Phòng, Bến Tre, Trà Vinh, Cà Mau, v..v.. Một số tài liệu quan trọng liên quan đến EbA đã được xuất bản như: Khung kỹ thuật về thực hành thích ứng với BĐKH dựa vào HST cho Việt Nam; Hướng dẫn kỹ thuật “Xây dựng và thực hiện các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu dựa vào hệ sinh thái tại Việt Nam: Tóm tắt chính sách”; Lồng ghép  thích ứng với BĐKH dựa trên hệ sinh thái ở Việt Nam; Hướng dẫn kỹ thuật lồng ghép EbA vào quy hoạch bảo tồn ĐDSH, Lồng ghép các giải pháp thích ứng EbA vào Kế hoạch hành động thích ứng BĐKH..v..v. (Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường, 2013; BOYLE, 2014; APAN – Asia Pacific Adaptation Network, 2015). Trong Hướng dẫn kỹ thuật xây dựng và thực hiện các giải pháp thích ứng với BĐKH dựa trên HST, ISPONRE đã đề xuất Khung thực hiện EbA gồm 4 bước (ISPONRE, 2013).

Sinh kế, sinh kế thích ứng và bền vững với biến đổi khí hậu

Đối với Việt Nam, BĐKH tác động mạnh mẽ đến các vùng miền, đối tượng, lĩnh vực và khu vực trong đó đáng chú ý là lĩnh vực nông nghiệp – nông thôn, tài nguyên – môi trường; vùng ven biển và hai đồng bằng; và đối tượng nông dân, người nghèo cùng sinh kế của họ. Những tác động của BĐKH đối với sinh kế nông nghiệp ở Việt Nam bao gồm: (i) Mất diện tích đất canh tác: Thu hẹp và mất diện tích đất canh tác ven biển do nước biển dâng, mất đất canh tác do quá trình xâm thực, xói lở bờ sông tăng và mất đất canh tác do xâm nhập mặn vào sâu trong đất liền, hạn hán gia tăng; (ii) Gia tăng suy thoái đất canh tác: Gia tăng diện tích đất bị nhiễm mặn do nước biển dâng cao và lượng bốc hơi nước mạnh hơn; Gia tăng quá trình thoái hóa đất do nhiệt độ và hạn hán tăng; Gia tăng quá trình xói mòn, rửa trôi đất theo nước do lượng mưa và cường độ mưa tăng; (iii) Gia tăng tổn thất mùa màng, giảm sản lượng cây trồng và vật nuôi do các tác động trực tiếp và gián tiếp của sự gia tăng nhiệt độ trung bình, độ bất thường của thời tiết, các hiện tượng thời tiết, khí hậu cực đoan (bão, lụt, hạn hán, rét đậm, rét hại…) (Bộ TN&MT, 2016). Theo dự báo trong kịch bản BĐKH, chỉ tính riêng nhiệt độ tăng, lượng mưa thay đổi thì sản lượng nông nghiệp của Việt Nam có thể giảm 50% vào năm 2100. Sản xuất nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, chiếm gần 20% tổng sản phẩm quốc nội (Bộ TN&MT, 2014) và là nguồn sống của gần 50% dân số, do vậy, bất cứ thiệt hại nào do tác động của BĐKH đối với nông nghiệp sẽ làm gia tăng tổn thương cho nông dân nghèo và sinh kế của họ.

Xây dựng các mô hình sinh kế thích ứng và bền vững

Sinh kế có nghĩa là nghề nghiệp hoặc việc làm hay con đường để kiếm sống. Sinh kế bao gồm các khả năng, các tài sản (bao gồm cả các nguồn lực vật chất và xã hội) và các hoạt động cần thiết để kiếm sống. Sinh kế bền vững (SKBV) là sinh kế có khả năng ứng phó và phục hồi khi bị tác động, hay có thể thúc đẩy các khả năng và tài sản ở cả thời điểm hiện tại và trong tương lai, trong khi không làm xói mòn nền tảng của các nguồn lực tự nhiên (DFID, 1999, 2007). SKBV chứa đựng các nội hàm sau: (i) Có thể phục hồi khi đối mặt với các cú sốc và khủng hoảng; (ii) Không quá phụ thuộc vào sự hỗ trợ bên ngoài; (ii) Duy trì và bảo tồn được tài nguyên; và (iv) Không bị suy yếu và suy giảm theo thời gian. Bốn phương diện chính để đánh giá tính bền vững của sinh kế là: kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế.

Trong bối cảnh BĐKH toàn cầu hiện nay xuất hiện một số thuật ngữ mới như “sinh kế thích ứng“ (adaptive livelihood) hay “sinh kế chống chịu"“ (resilient livelihood). Về cơ bản, đó là sinh kế có khả năng chống chịu với các tác động từ thời tiết cực đoan, giảm thiểu thiệt hại do BĐKH gây ra và phát huy được các mặt có lợi do BĐKH mang lại cũng như giảm phát thải khí nhà kính. Ở Việt Nam, các tiêu chí để đánh giá một mô hình, giải pháp sinh kế thích ứng, bền vững hiện nay là: (i) Thích ứng với BĐKH, (ii) Có thể giảm phát thải khí nhà kính, (iii) Có hiệu quả và bền vững về môi trường, về kinh tế và xã hội, và (iv) có khả năng nhân rộng (Bộ TN&MT và VNGO&CC, 2016).

Để phát triển sinh kế, cộng đồng, địa phương cần có các nguồn lực, nguồn vốn. Nguồn vốn sinh kế là toàn bộ năng lực vật chất và phi vật chất mà con người có được để duy trì hay phát triển sinh kế của họ và được chia thành 5 vốn chính: vốn nhân lực, vốn tài chính, vốn vật chất, vốn xã hội và vốn tự nhiên. Vốn tài chính bao gồm các nguồn tài chính từ tích lũy, thu nhập thường xuyên hoặc tiền vay. Vốn vật chất bao gồm cơ sở hạ tầng và các loại hàng hóa mà người sản xuất cần để phát triển sinh kế. Vốn xã hội bao gồm quan hệ xã hội, mạng lưới, uy tín, niềm tin, ... Vốn con người gồm tổng hợp của sức khỏe, kiến thức, nhận thức, kỹ năng, khả năng làm việc ... Vốn tự nhiên là tất cả những nguyên vật liệu tự nhiên để tạo dựng sinh kế, gồm tài nguyên thiên nhiên (nước, đất, sinh vật, khí hậu...) và các dịch vụ HST/ ĐDSH. Trong 5 nguồn vốn trên thì vốn tự nhiên (ĐDSH) là do tự nhiên “cho không" con người nhưng chúng ta đang sử dụng lãng phí nhất trong khi nguồn vốn này rất khó tái tạo, phục hồi hoặc tốn kém chi phí để phục hồi.

Khung lý thuyết để xây dựng sinh kế thích ứng được tóm tắt trong Hình 2.


    

 

Tình hình xây dựng các mô hình sinh kế thích ứng và bền vững ở Việt Nam

Các mô hình sinh kế thích ứng với BĐKH đã được xây dựng và triển khai ở một số địa phương do các cơ quan nhà nước (Bộ TN&MT, 2016 và các cơ quan khác như Bộ NN&PTNT, Trung tâm Khuyến nông quốc gia, Viện Kinh tế nông nghiệp,...), và các tổ chức phi chính phủ quốc tế và trong nước (CARE, 2014,...; World Vision, 2015,...; WWF,...; MCD,...; SRD, CRD, Viện Dragon,...). Một số mô hình tốt có thể kể ra như: Hệ thống thâm canh lúa cải tiến (SRI) nhằm giảm nhẹ và thích ứng với BĐKH tại miền Trung Việt Nam, Giải pháp thay đổi cơ cấu giống lúa và cải tiến kỹ thuật sử dụng phân bón tại một số tỉnh đồng bằng sông Hồng, Mô hình lúa vụ Đông Xuân và Hè Thu thích ứng với BĐKH tại huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi; Các mô hình sinh kế thích ứng với hạn tại huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn; Mô hình hỗ trợ nông dân sản xuất nông nghiệp khép kín không rác thải tại huyện Tân Sơn và Thanh Sơn tỉnh Phú Thọ… Đánh giá chung là các mô hình này, về cơ bản đã được xây dựng theo khung sinh kế bền vững của DFID (2007) và chú ý tới khả năng thích ứng với BĐKH cũng như giảm tác động đến ĐDSH và môi trường. Cho dù nhiều mô hình chưa phải là các mô hình sinh kế mà là các điển hình tốt về sinh kế trong các lĩnh vực khác nhau (trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản,...) nhưng đã góp phần phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của người dân trong bối cảnh BĐKH hiện nay.

Báo cáo “Điều tra cơ bản kinh tế - xã hội của cộng đồng ven biển trong khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang” do Tổ chức GIZ thực hiện năm 2009 đã chỉ ra rằng, sinh kế cộng đồng đóng góp một vai trò quan trọng trong việc bảo tồn các hệ sinh thái và ĐDSH ở Khu DTSQ, do vậy, để các Khu DTSQ phát triển một cách bền vững thì cần phải đảm sinh kế của cộng đồng.

Trong khi đó, hiện nhà nước ta đã có chiến lược quốc gia và Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh quốc gia trong đó chú trọng các giải pháp phát triển sinh kế giảm phát thải khí nhà kính và tăng khả năng thích ứng, chống chịu với BĐKH. Bộ NN&PTNT đã xây dựng Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH trong đó ưu tiên các giải pháp, mô hình sinh kế bền vững cho các vùng nông thôn dễ bị tổn thương bởi BĐKH, đa dạng sinh kế cho nữ giới, trong phát triển kinh tế nông nghiệp phải “Nâng cao năng lực ứng phó với BĐKH (gồm cả thích ứng và giảm thiểu) nhằm phát triển nền nông nghiệp và nông thôn xanh, bền vững, nâng cao giá trị gia tăng, cải thiện sinh kế, bảo vệ dân cư trước những tác động tiêu cực của BĐKH trong giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn 2050” (Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH của Bộ NN&PTNT, 2015). 

Kết luận

Đa dạng sinh học, BĐKH và sinh kế cộng đồng có mối liên hệ tương tác lẫn nhau và là các hợp phần quan trọng chủ chốt trong phát triển bền vững (Hình 3). Việt Nam là nước có ĐDSH cao trên thế giới nhưng cũng là quốc gia có dân số đông và được đánh giá là dễ bị tổn thương bởi BĐKH. Do vậy, để đạt được mục tiêu tăng trưởng xanh/ phát triển bền vững, cần thiết phải tác động và thúc đẩy mối quan hệ tương tác giữa ứng phó với BĐKH, bảo tồn và phát triển ĐDSH - cải thiện sinh kế thích ứng, bền vững. Trong quá trình này, cần thiết áp dụng kết hợp các cách tiếp cận khác nhau như “trên xuống” (top-down), “dưới lên” (bottom-up/ dựa vào cộng đồng), liên ngành (interdisciplinary) và tiếp cận “dựa vào hệ sinh thái” (Ecosystem based approach/ EbA) trong đó EbA cần được xem trọng và tăng cường nghiên cứu và triển khai (R&D).

 

 

 

 

Tài liệu tham khảo chính

 

BOYLE, J., 2014. How can ecosystem services increase the resilience of communities vulnerable to climate change? Global Water Forum.

Bộ Tài nguyên và Môi trường (Trương Quang Học chủ biên), 2003. Đa dạng sinh học và bảo tồn. Bộ TN&MT.

Bộ Tài nguyên và Môi trư­ờng và Mạng lưới VNGOCC, 2016. Sinh kế thích ứng với biến đổi khí hậu – Tiêu chí đánh giá và các điển hình (Trương Quang Học chủ biên, Hoàng Thị Ngọc Hà tham gia cùng nnk).

CBD – Convention on Biological Diversity, 2009: Connecting Biodiversity and Climate Change Mitigation and Adaptation: Report of the Second Ad Hoc Technical Expert Group on Biodiversity and Climate Change. Technical Series No. 41.

Doswald, N.; Munroe, R.; Roe, D; Giuliani, A.; Castelli, I; Stephens, J; Möller,I.; Spencer, T; Vira, B. & Reid,H., 2014. Climate and Development: Effectiveness of ecosystem-based approaches for adaptation: review of the evidence-base, Climate and Development.

GIZ, 2015. Tài liệu tập huấn ToT “Lồng ghép Thích ứng BĐKH trong công tác lập kế hoạch phát triển - Trọng tâm Thích ứng dựa vào Hệ Sinh thái ở Việt Nam”.

Hoang Thi Ngoc Ha and Truong Quang Hoc, 2015. ECODE and its activities in climate change adaptive livelihoods in Red river delta. Proceedings of the “Vietnam – Japan workshop on estuaries, coascts and rivers 2015, Hoi An, 7-8 September 2015.

Hoàng Thị Ngọc Hà, 2016. Mạng lưới VNGO&CC và các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu (VNGO&CC xuất bản).

Hoàng Thị Ngọc Hà và Trương Quang Học, 2015. Triển khai sinh kế thích ứng với biến đổi khí hậu. Tạp chi Môi trường, Số 3, tr. 52-54.

IPCC, 2007, 2013. “Báo cáo đánh giá lần 4 của UBLCPVBĐKH: Nhóm I: “Khoa học vật lý về biến đổi khí hậu”, Nhóm II: “Tác động, thích ứng và khả năng bị tổn thương”, Nhóm III: “Giảm nhẹ biến đổi khí hậu”.

ISPONRE, 2013b. Lồng ghép thích ứng với Biến đổi khí hậu dựa vào hệ sinh thái tại Việt Nam - Tóm tắt chính sách.

IUCN (2009). Ecosystem–based Adaptation: A natural response to climate change.

IUCN (Edited by Ángela Andrade Pérez, Bernal Herrera Fernández and Roberto Cazzolla Gatti), 2010. Building Resilience to Climate Change: Ecosystem-based adaptation and lessons from the field. CEM

Lovejoy, T.E.; Hannan, L., 2005. Climate change and Biodiversity. Yale University Press, New Haven & London.

Millennium Ecosystem Assessment (MA). 2005. Ecosystems and Human Well-Being: Current State and Trends. Washington DC: Island Press.

SEI/Stockholm Environment Institute, 2010. Ecosystem-based Adaptation in Africa. Rationale, Pathways, and Cost Estimates.

Shaun, M., 2015. Ecosystem-based Adaptation helping people adapt by using nature. Hanoi, GIZ workshop. Ppt. September 2015

Trương Quang Học và Hoàng Thị Ngọc Hà, 2016. Đẩy mạnh đào tạo và Nghiên cứu - ứng dụng về hệ sinh thái phục vụ phát triển bền vững đất nước. Báo cáo khoa học về Nghiên cứu và giảng dạy sinh học ở Việt Nam. Bộ Giáo dục và Đào tạo, NXB Đại học Quốc gia, tr.1353-1364.

Trương Quang Học, 2013. Cơ sở sinh thái học cho phát triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu. Kỷ yếu Hội thảo quốc gia “Năng cao sức chống chịu trước biến đổi khi hậu. Hạ Long: 3-24.

Trương Quang Học, Hoàng Thị Ngọc Hà và Nguyễn Tiến Trường, 2015. Đánh giá khả năng chống chịu biến đổi khí hậu của hệ sinh thái-xã hội: Lý thuyết và Nghiên cứu điểm tại Tp. Hải phòng. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học-công nghệ trong lĩnh vực môi trường (Trong khuôn khổ Hội nghị Môi trường toàn quốc lần thức IV), Hà Nôi, 29/9/2015: 85-99.

Truong Quang Hoc, 2008. Linkage between biodiversity and climate change in Vietnam. Proceedings, The 2nd Vietnam-Japan Symposium on Climate Change and the Sustainability, 11.2008. Vietnam. National University Press. Ha Noi.

UNEP, SREP, 2012. A comparative analysis of ecosystem–based adaptation and engineering options for Lami Town, Fiji.

UNFCCC, 2011. Ecosystem-based approaches to adaptation: compilation of information. FCCC/SBSTA/2011/INF.8.

World Bank, 2010. Convenient Solution to an Inconvenient Truth: Ecosystem-Based Approaches to Climate Change. The World Bank.

 

 

 

Lượt xem: 7113

Các tin khác

Bảo vệ môi trường – Nền tảng để phát triển kinh tế bền vững

(28/03/2024 07:08:AM)

Chuyển đổi xanh trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

(26/03/2024 05:49:AM)

Một số suy nghĩ về chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ “nâu” sang “xanh”, từ khai thác thâm dụng tài nguyên thiên nhiên sang phát triển dựa vào hệ sinh thái, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn - Từ phân tích thực

(25/03/2024 06:28:AM)

Biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng lớn đối với Việt Nam

(24/03/2024 06:05:AM)

Thách thức khi tham gia thị trường tín chỉ carbon

(22/03/2024 07:08:AM)

Vai trò của tài nguyên thiên nhiên đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

(17/03/2024 06:53:AM)

Thúc đẩy chi trả dịch vụ hệ sinh thái biển và đất ngập nước tại Việt Nam

(10/03/2024 07:49:AM)

Giảm dấu chân carbon - hướng tới net zero

(06/03/2024 04:46:AM)

Doanh nghiệp và xu thế chuyển đổi xanh

(21/02/2024 09:11:AM)

VIDEO

Truyền hình TN-MT Số 03: Bảo tồn Cây Di sản, Anh hùng ĐDSH, ...

Xem thêm

TRANG VÀNG MÔI TRƯỜNG VACNE