quản lý tòa nhà

logo Tạp chí TNMT-VACNE Vì Môi trường Xanh Quốc gia 2024
HỘI THẢO KH

Một số vấn đề trong nghiên cứu đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường ở các quốc gia Đông Bắc Á và khuyến nghị (Phần 1)

Thứ Năm, 27/02/2014 | 10:44:00 AM

(VACNE) - Bài viết của PGS.TS. Lê Trình, Viện Khoa học Môi trường và Phát triển (VESDEC), Chủ tịch Hội Đánh giá Tác động môi trường Việt Nam (VACNE).

          

Từ ngày 07 đến 09 tháng 11/2013 Hội nghị ba bên Nhật Bản – Hàn Quốc – Trung Quốc lần thứ 2 về Đánh giá tác động môi trường (ĐTM)/Đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) đã được tổ chức tại Đại học Kinh tế Chiba – Nhật Bản.  Tiêu đề Hội nghị là “Đánh giá tác động là cách thức của xã hội bền vững” (Impact Assessment as Manners of Sustainable Society”.

Hội nghị quy tụ gần 100 đại biểu là các nhà khoa học, chuyên gia về ĐTM/ĐMC của 3 quốc gia này. Theo lời mời của Ban Tổ chức, ông Lê Trình, Chủ tịch Hội ĐTM Việt Nam đã tham dự. 50 báo cáo, trong đó có 18 báo cáo về ĐMC – lĩnh vực mới mà cả các nước Đông Bắc Á chỉ mới thực hiện trong hơn 10 năm gần đây đã được giới thiệu. 


Tác giả bài viết này đã trình bày ở Hội nghị báo cáo: “Nghiên cứu ĐMC: các thách thức môi trường Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung Việt Nam đến năm 2020” (dựa vào kết quả nghiên cứu của Dự án do Tổng cục Môi trường giao Lê Trình chủ trì năm 2010) và một poster “Hiện trạng ĐMC ở Việt Nam” (dựa vào các tài liệu của Cục Thẩm định và ĐTM và kết quả ĐMC Quy hoạch Vành đai kinh tế ven biển Vịnh Bắc Bộ do Lê Trình, Lê Thạc Cán chủ trì năm 2008).


ĐTM và cả ĐMC dường như đã quá quen thuộc ở Việt Nam, tuy nhiên do các ĐTM và ĐMC được thực hiện theo khuôn mẫu của quy định về nội dung và hình thức của Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN-MT) (đây là yêu cầu cần làm theo quy định của tất cả các quốc gia, tổ chức quốc tế) nhưng lại hạn chế về thời gian, nguồn lực chuyên gia, nên thiếu tính nghiên cứu sáng tạo, ít vấn đề khoa học mới được nêu trong từng tập báo cáo, kể cả các báo cáo cho các dự án lớn Bộ TN-MT thẩm định.  Trong khi đó tại nhiều quốc gia, ĐTM và ĐMC được quan niệm không chí là công cụ pháp lý cần phải thực hiện cho dự án hoặc chiến lược, quy hoạch, kế hoạch (C/Q/K) mà còn là các nghiên cứu khoa học về tác động đến môi trường tự nhiên, sức khỏe và xã hội (kể cả văn hóa, dân tộc, khảo cổ…). Theo quan điểm đó, ngoài báo cáo ĐTM/ĐMC cần phải soạn thảo theo đúng quy định của các Chính phủ về ‘environmental impact statement – EIS (báo cáo tác động môi trường), “tác động môi trường” đã và đang là lĩnh vực nghiên cứu khoa học nghiêm túc thu hút nhiều viện, trường đại học, nhà khoa học tham gia.

Tại hội nghị này nhiều vấn đề nghiên cứu mới về tác động môi trường đã được các học giả nêu ra. Mặc dầu số lượng báo cáo tham gia hội nghị không quá nhiều, chưa thể phản ánh đầy đủ thực trạng về ĐTM/ĐMC ở các quốc gia Đông Bắc Á, tuy nhiên một số vấn đề có giá trị khoa học và thực tiễn nên được chúng tôi chọn lọc làm tổng quan kèm theo nhận xét, liên hệ với Việt Nam với mong muốn cung cấp thông tin cho các cơ quan quản lý môi trường, các đơn vị và cán bộ làm và thẩm định về ĐTM/ĐMC tham khảo để góp phần nâng cao chất lượng công tác quản lý và thực hành ĐTM/ĐMC ngày càng thực chất, đảm bảo chức năng ĐTM/ĐMC là “công cụ” hữu hiệu trong quản lý môi trường theo định hướng phát triển bền vững.


C:\Documents and Settings\Home\Desktop\DSC05228.JPG

Chủ tịch Hội ĐTM Việt Nam và GS Sachihiko Harashina, nguyên Chủ tịch Hội Đánh giá Tác động Môi trường Quốc tế (IAIA)  ô. Yasusuke Kurosaki, Chủ tịch Hiệp hội  Đánh giá Tác động Môi trường Nhật Bản (JEAS) tại Hội nghị.



1.  Thực trạng ĐTM/ĐMC ở các nước Đông Bắc Á

 

ĐTM và ĐMC ra đời và phát triển sớm nhất tại Hoa Kỳ (ĐTM từ năm 1969, ĐMC từ thập kỷ 80 TK20) sau đó là Canada, Tây Âu, Australia, Đông Âu, Đông Á, Đông Nam Á. Tại 3 nước Đông Bắc Á, ĐTM mới được quy định bắt buộc cách đây 24 – 35 năm và ĐMC: chỉ mới được quy định bắt buộc cách đây 10-15 năm (chỉ sớm hơn Việt Nam vài năm). Do vậy đến nay ĐTM và ĐMC ở 3 quốc gia này còn khá nhiều hạn chế so với nhiều quốc gia nêu trên.

    
Tại Nhật Bản


ĐTM đã được giới thiệu vào Nhật Bản từ 1972, tuy nhiên đến năm 1984 Chính phủ mới quy định chính thức về thực hiện ĐTM cho các dự án và Luật riêng về “Đánh giá tác động môi trường” (Environmental Impact Asessment Law) được ban hành tháng 6 năm 1997 (Hàn Quốc vào năm 1993, Trung Quốc vào năm 2003 đã ban hành “Luật đánh giá tác động môi trường”, trong khi ở Việt Nam ĐTM vẫn chỉ là 1 chương trong Luật BVMT sửa đổi năm 2014).


Đặc điểm hệ thống ĐTM Nhật Bản là:


(i)  Số loại hình cần bắt buộc ĐTM rất hạn chế
: ít hơn nhiều so với yêu cầu của Việt Nam: chỉ có 13 loại hình dự án cần lập ĐTM (đường bộ, chỉnh trị sông, đường sắt, cảng hàng không, nhà máy điện, khu đổ thải, cải tạo đất, điều chỉnh sử dụng đất, khu dân cư mới, cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, cơ sở hạ tầng thành phố mới, tổ hợp trung tâm phân phối, phát triển đất ở và đất công nghiệp do các tổ chức chuyên dụng). Mỗi loại hình có một số kiểu dự án và được chia thành 2 loại (class) dự án: dự án loại 1 (class -1) và dự án loại 2 (class-2), theo quy mô hoặc diện tích. Mỗi loại có yêu cầu riêng về mức độ ĐTM.  Tuy nhiên, số loại hình dự án cần ĐTM ít như vậy có thể không phù hợp với nước ta trong giai đoạn hiện nay.


(ii)  ĐTM được thực hiện
rất thận trọng cả khâu nghiên cứu lập báo cáo và cả khâu thẩm định: 1 báo cáo ĐTM cần trung bình 3 năm (không rõ thời gian chờ thẩm định là bao lâu?) từ khi nghiên cứu đến khi được cấp phép thẩm định (ở Việt Nam thường chỉ mất 0,6 – 2,0 năm đối với dự án quy mô lớn cấp Bộ TN-MT thẩm định (kể cả thời gian chờ) và chỉ 3 – 9 tháng đối với dự  án nhỏ do các Sở TN-MT thẩm định, vậy mà còn bị nhiều bộ, ngành, nhà đầu tư than phiền). Chính sự thận trọng này giúp các dự án tại Nhật Bản hạn chế đến mức thấp nhất các tác động xấu đến môi trường tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên sự kéo dài quá trình ĐTM gây không ít khó khăn cho các nhà đầu tư và các cơ quan quản lý môi trường do vậy đã có một số đề xuất “hợp lý hóa/đơn giản hóa (streamlining) quy trình ĐTM” với một số loại hình dự án đặc thù (xem phần 2).


(iii)  Mặc dầu ĐTM Nhật Bản là tổng hợp các kết quả nghiên cứu khoa học, tuy nhiên chính các nhà môi trường nước này cũng cho rằng vẫn còn lạc hậu so với một số quốc gia Phương Tây. Trong bài báo “Nhật Bản cần học gì về đánh giá môi trường của Canada” tác giả Akane Otaka đã nêu một số ý sau:


-  Ở Canada, đánh giá môi trường đã được đề xuất từ 1973 và Luật Đánh giá môi trường (Canadian Environmental Assessment Act – CEAA) đã được ban hành từ 1992 (giáo trình đầu tiên tác giả bài viết này học về ĐTM từ năm 1987ở Delft là giáo trình của Canada).  

-  Nhằm khắc phục các điểm yếu về đánh giá môi trường, tăng hiệu quả của hệ thống đánh giá môi trường CEAA được sửa đổi vào năm 2012 với bổ sung các quy định:

           + Có hình phạt với các chủ đầu tư không lập báo cáo đánh giá môi trường;

           + Cấp kinh phí cho công tác tham vấn cộng đồng và thực hiện chương trình giám sát sau thẩm định (follow - up program)

           + Hợp tác và công bố thông tin tác động môi trường với dân chúng.


Theo tác giả, các quy định trên của hệ thống đánh giá môi trường của Canada là tiên tiến hơn Nhật Bản, do vậy Nhật Bản cần học tập.


Ở Trung Quốc


ĐTM và ĐMC đã được quy định và thực hiện tại Hong Kong (Hương Cảng) – Trung Quốc trước cả Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Hiện nay hệ thống ĐTM, ĐMC của Hong Kong đã hài hòa với các quốc gia tiên tiến: không chỉ xem xét các tác động đến môi trường vật lý, môi trường sinh học mà còn đến tác động xã hội, chú trọng sự tham gia cộng đồng và công khai thông tin minh bạch nên được đánh giá thuộc loại tốt nhất châu Á và Hong Kong hiện nay được đánh giá là một trong các nước/vùng lãnh thổ có năng lực cạnh tranh tốt nhất, mức tham nhũng vào loại thấp trên thế giới (tốt hơn nhiều so với CHND Trung Hoa).


Trong khi đó, theo Triệu Tiểu Hồng (Zhao Xiaohong), Bộ Bảo vệ môi trường Trung Quốc, mặc dù đã ban hành Luật ĐTM từ 2003 và mỗi năm có đến 30.000 dự án lập ĐTM và ĐMC (thực chất là “ĐTM cho quy hoạch: Plan - EIA” đã được thực hiện cho các quy hoạch phát triển các vùng kinh tế, địa phương, ngành lĩnh vực, các lưu vực sông, các vùng kinh tế ven biển, vịnh biển….nhưng nhiều học giả Trung Quốc tự đánh giá: chất lượng ĐTM/ĐMC ở nước này vẫn còn nhiều vấn đề:


(i)  Khi so sánh với hệ thống ĐTM của Trung Quốc với Hàn Quốc Từ Hưởng Lan (Xu Xianglan), GS Trung Quốc giảng dạy ở Đại học Nam Seoul cho rằng các quy định và hiệu quả về ĐTM của Trung Quốc còn lạc hậu: nếu ở Hàn Quốc ĐTM đã được đưa vào Luật từ 1981 và được bổ sung năm 1993 thì Trung Quốc mới có quy định về ĐTM từ 1990 trong Luật BVMT sau đó trong Luật ĐTM 2003. Hệ thống ĐTM của Hàn Quốc là tổng hợp và hiệu quả hơn, trong khi đó ĐTM ở Trung Quốc chú trọng “phòng ngừa là chính”, nặng hình thức, ít thực chất so với Hàn Quốc và với các nước tiên tiến trên thế giới.


(ii)  Cũng tự đánh giá về chất lượng của hệ thống ĐTM/ĐMC của Trung Quốc Từ Hòa (Xu He) và Vương Huy Chí (Wang Huizhi), Trung tâm Nghiên cứu ĐMC – Đại học Nam Khai (Thiên Tân) cho rằng hiện nay ĐMC ở Trung Quốc chỉ có hiệu quả ở mức tương đối tốt. ĐMC còn thiếu tính định lượng. Để ĐMC có giá trị dự báo cao hơn cần phải giải quyết 2 vấn đề quan trọng:


-  Xác định và xây dựng các chỉ thị (indicators) để đánh giá.

- Tìm các phương pháp định lượng và có thể đo lường được tác động và diễn biến môi trường do thực hiện quy hoạch.


(Đây cũng là các vấn đề mà Việt Nam cũng đang mắc phải, cần được nghiên cứu trong thời gian tới để báo cáo ĐMC không phải là tài liệu chung chung, minh họa cho ý đồ của C/Q/K, kém đặc thù và ít tính dự báo
).


(iii)  Thách thức trong ĐMC ở Trung Quốc: ĐMC ở Trung Quốc (được phát triển từ ĐTM cho quy hoạch) đã được đưa vào Luật ĐTM từ 2003 thể hiện cam kết của lãnh đạo đất nước về phát triển bền vững. Tuy nhiên theo tác giả Lam Ken-che (Viện ĐTM Hong Kong) phần lớn các nỗ lực trong trong 10 năm qua chỉ là xây dựng quy trình và làm hoàn thiện các kỹ thuật, phương pháp đánh giá. Tuy nhiên về bản chất các phương pháp sử dụng cho ĐMC (thực ra là ĐTM quy hoạch) là chưa phù hợp với sự thay đổi nhanh chóng của quy hoạch, sự tư nhân hóa các công ty nhà nước và thay đổi chính sách, chưa kể tác động do biến đổi khí hậu.


Tại Hàn Quốc


Dựa theo các thông tin từ hội nghị này và hội nghị ĐTM/ĐMC năm 2012 tại Jeju cũng như qua khảo sát của chúng tôi tại Hiệp hội ĐTM Hàn Quốc (năm 2010) hiện nay ĐTM và ĐMC của Hàn Quốc là tiên tiến: cơ sở pháp lý về ĐTM/ĐMC rõ ràng, các phương pháp, quy trình đã được xây dựng hoàn chỉnh và ĐTM/ĐMC đã đi vào chi tiết, có nghiên cứu khoa học. Do vậy, ĐTM/ĐMC đang là công cụ tốt cho định hướng “Tăng trưởng Xanh” với tham vọng đến 2020 Hàn Quốc trở thành 1 trong 5 quốc gia hàng đầu thế giới về Kinh tế Xanh.


Các xu hướng chính trong nghiên cứu khoa học về ĐTM ở Hàn Quốc được tóm tắt trong báo cáo của Kim Taehyoung cho thấy từ năm 2008 đến 2012 riêng Viện Môi trường Hàn Quốc (Korea Environment Institute – KEI) đã công bố 106 bài báo trong đó có đến 57 nghiên cứu về ĐTM (chiếm 53,8%). Số lượng công trình nghiên cứu về các vấn đề môi trường đặc thù tăng nhanh và chiếm đến 70,4% tổng số công trình về ĐTM, trong khi số công trình về kỹ thuật ĐTM chỉ chiếm 18,9%.


Trong các năm gần đây các công trình nghiên cứu về tác động do biến đổi khí hậu (BĐKH) và tác động sức khỏe, về năng lượng tái tạo ngày càng nhiều, trong đó số lượng công trình về BĐKH chiếm 4,4% trong tổng số các công trình trong 5 năm qua của KEI.

 

Sự hài hòa về ĐTM/ĐMC giữa các quốc gia


Khi tổng quan về tình hình ĐTM/ĐMC của các nước châu Á Naoyuki Sakumoto (JETRO Nhật Bản) cho rằng: phần lớn các quốc gia châu Á đã có quy định về ĐTM/ĐMC. Tuy nhiên, trong khi các quy định về ĐMC giữa các quốc gia trong Cộng đồng Châu Âu và Mỹ không có nhiều khác biệt thì các quy định về ĐTM/ĐMC giữa các quốc gia châu Á là không giống nhau. Nguyên nhân chính là do sự khác biệt về đặc điểm kinh tế, xã hội và hệ thống chính trị, nền tảng văn hóa của các nước châu Á. Để hoạt động ĐMC/ĐTM có sự liên thông giữa các nước châu Á cần tiến tới hài hòa (harmonize) về các quy định, cách tiếp cận, quy trình và phương pháp ĐMC/ĐTM. Tuy nhiên việc này không dễ dàng mà phải được sự đồng thuận giữa các chính phủ các quốc gia trong châu lục này.

(Còn tiếp)







Lượt xem: 5451

Các tin khác

Tri thức bản địa và sinh kế cộng đồng nhìn từ nguồn gen

(02/06/2014 01:59:PM)

Dãy Trường Sơn trong bối cảnh biến đổi khí hậu

(28/05/2014 11:49:AM)

Bảo tồn sự đa dạng văn hóa-sinh học của các dân tộc trên dãy Trường Sơn

(23/05/2014 10:48:AM)

Có nên phát triển vùng trồng ba kích Tây Giang?

(22/05/2014 05:29:AM)

Mời dự Hội thảo khoa học về sản xuất sạch hơn

(28/03/2014 03:30:PM)

Thăm vùng thảm họa động đất – sóng thần ở Nhật Bản: Cuộc sống đã phục hồi (Phần cuối)

(22/03/2014 09:28:AM)

Thăm vùng thảm họa động đất – sóng thần ở Nhật Bản: Cuộc sống đã phục hồi (Phần 1)

(20/03/2014 08:56:PM)

Một số vấn đề trong nghiên cứu đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường ở các quốc gia Đông Bắc Á và khuyến nghị (Phần cuối)

(01/03/2014 03:29:PM)

Một số vấn đề trong nghiên cứu đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường ở các quốc gia Đông Bắc Á và khuyến nghị (Phần 2)

(27/02/2014 09:00:PM)

VIDEO

Truyền hình TN-MT Số 03: Bảo tồn Cây Di sản, Anh hùng ĐDSH, ...

Xem thêm

TRANG VÀNG MÔI TRƯỜNG VACNE